TCT HƯNG THỊNH
08.38363939 - 0907775858
Hung Thinh Logo

253-255 Nguyễn Biểu, P2, Q5, TP.HCM.
Tel: 08.38363939 - Fax: 08.39234131
Hotline: 0907775858
Email: info@hungthinhgroup.net
Website: law.hungthinhgroup.net

Luật Mạnh Đức: Dịch vụ pháp lý
TIN CẬY - HIỆU QUẢ

  • Tư vấn Đầu tư
  • Luật sư tranh tụng
  • Tư vấn vụ việc dân sự, vụ án khác
  • Dân sự, Lao động, Kinh tế
  • Hành chính, Hôn nhân, Visa
  • Dịch thuật Anh-Hoa-Hàn
  • Kế-toán-Thuế doanh nghiệp
  • Tư vấn doanh nghiệp, ABTC-APEC
  • Các dịch vụ pháp lý khác
  • Hưng Thịnh | Luật Mạnh Đức | Dịch vụ pháp lý |Luật sư Tư vấn |Việc dân sự Vụ án |Văn bản pháp luật

    Sưu tầm

    Xây dựng văn hóa kinh doanh (VHKD) là mục tiêu nhưng lại là thách thức lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ những hạn chế, bất cập trong VHKD Việt Nam, từ đó tìm ra hướng đi cho doanh nghiệp, doanh nhân để có thể tích cực, chủ động trong hội nhập, đảm bảo xây dựng nền VHKD Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững nền kinh tế đất nước trong thời gian tới.

    NHỮNG BẤT CẬP CỦA VHKD VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP 

    Thực tế trong bối cảnh hội nhập hiện nay, không ít doanh nghiệp Việt Nam đã trưởng thành, trụ vững và phát triển mạnh mẽ, mà nguyên nhân sâu xa chính là do các doanh nghiệp này đã và đang coi trọng xây dựng VHKD cho mình. Tuy nhiên, hiện còn không ít doanh nhân chưa nhận thức được vai trò, động lực của VHKD trong hội nhập nên trong quá trình kinh doanh đã bộc lộ những bất cập, ảnh hưởng tiêu cực đến năng lực cạnh tranh, làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Dưới đây là một số bất cập chính của VHKD Việt Nam trong tiến trình hội nhập.

    Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện, thiếu chuyên nghiệp, thiếu sáng tạo

    Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế do cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến cục diện chung. Việc liên kết để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn chỉ thuận lợi trong những bước đầu, sau đó, các doanh nghiệp thường tìm cách xé lẻ, giành riêng hợp đồng cho mình để rồi dẫn đến tình trạng luôn nghi kỵ, đối phó lẫn nhau và sẵn sàng giành giật quyền lợi riêng cho công ty mình mà không nghĩ đến cục diện chung. Nhiều doanh nghiệp không có khả năng tổ chức thực thi sản xuất và kinh doanh ở quy mô lớn cho cùng loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường.

    Theo báo cáo mới nhất của UNDP về 200 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam thì chúng ta chưa có doanh nghiệp lớn tầm cỡ thế giới. Những doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam cũng chỉ mới tương đương với những doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước phát triển. Cách làm “hổng chỗ nào thì vá chỗ ấy”, “cháy chỗ nào thì dập chỗ đó”, cẩu thả trong ký kết và thực hiện hợp đồng… đang tồn tại và hoàn toàn không phù hợp với môi trường kinh doanh văn minh, hiện đại. Người Nhật Bản trước khi làm điều gì, họ nghiên cứu kỹ mục tiêu đến 90%, việc điều chỉnh trong khi thực hiện không quá 10%. Còn ở Việt Nam thì vừa uống cà phê, uống bia vừa bàn bạc, sau đó thống nhất với nhau làm, nên khi làm phải điều chỉnh và cuối cùng mục tiêu mà chúng ta đạt được so với mục tiêu ban đầu thay đổi rất nhiều. Các doanh nhân cũng nhận ra rằng, sự “bài bản” còn thể hiện ở tính chuyên nghiệp, ở “tinh thần thượng tôn pháp luật”, ở tính kỷ luật.

    Trong VHKD của người Việt Nam, nhiều thói quen, cung cách làm ăn cũ, lạc hậu, tùy tiện vẫn đang tồn tại; phong cách làm việc chuyên nghiệp, sáng tạo, sẵn sàng hợp tác chưa định hình rõ nét. Sự gian dối trong kinh doanh vẫn còn tồn tại, không ít doanh nhân đã thẳng thắn bộc lộ; “Buôn bán thật thà thì chỉ có ăn cám”, vì thế họ tìm mọi cách trốn lậu, phi pháp, lách luật để làm ăn.

    Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn

    Một hạn chế lớn khác đã bộc lộ rõ nét trong VHKD của các doanh nghiệp nước ta khi hội nhập là sự hạn chế về tầm nhìn cũng như khát vọng của các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam. Xuất thân từ nền kinh tế tiểu nông, con người Việt Nam thường có tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi và muốn đi đường tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi kết quả lâu dài. Muốn có và đạt được những mục tiêu dài hạn, đòi hỏi doanh nhân phải có tầm nhìn dài hạn. Vì không có tầm nhìn dài hạn nên các doanh nhân Việt Nam thường không xây dựng mục tiêu dài hạn và có kế hoạch đầu tư thích hợp. Đa số doanh nhân khi lập doanh nghiệp chỉ nghĩ đến việc xây dựng một công ty hàng đầu Việt Nam, ít khi nghĩ xa hơn tới việc xây dựng các thương hiệu toàn cầu, tham gia vào giải quyết các bài toán tiêu dùng cho toàn thế giới.

    Cũng vì thiếu tầm nhìn nên doanh nghiệp không đầu tư vào những vấn đề cốt lõi, lâu dài mà lao theo xu hướng “ăn xổi”, đầu tư cả vào những lĩnh vực không thuộc chuyên môn của mình. Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu tư và lợi ích kinh doanh dài hạn tại Việt Nam thì nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam lại đang tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư mang tính đầu cơ như kinh doanh bất động sản, chứng khoán… mà quên đi các lĩnh vực kinh doanh cốt lõi.

    Thiếu tính liên kết, cộng đồng

    Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài có sức mạnh và tiềm lực lớn, lại hơn chúng ta cả trăm năm kinh nghiệm mà doanh nghiệp Việt Nam lại vốn liếng chưa nhiều, năng lực cạnh tranh chưa cao thì chúng ta rất cần đến sự liên kết, đoàn kết. Một mình Cà phê Trung Nguyên với hoài bão xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam mà không có sự tiếp sức của những doanh nghiệp cùng ngành nghề thì biết đến khi nào mới thực hiện được. Nhưng thực tế, không ít doanh nghiệp lại không thể cởi mở, liên kết với nhau, thậm chí có khi còn chơi xấu, cạnh tranh không lành mạnh với nhau. Hệ quả là không những không nâng cao được sức cạnh tranh mà còn yếu đi vì sự tranh mua, tranh bán, thậm chí hạ uy tín của nhau. Trên thực tế, vấn đề liên kết doanh nghiệp đã được đặt ra rất nhiều lần ở tất cả các hiệp hội, ngành nghề. Tuy nhiên, nhiều quan chức, cơ quan có thẩm quyền cũng “bó tay” trước thói quen cố hữu của rất nhiều doanh nghiệp là “mạnh ai nấy làm”. Xét về khía cạnh liên kết, hợp tác của các doanh nhân trong quá trình hoạt động kinh doanh để cùng phát triển và theo nguyên tắc cùng có lợi, tính cộng đồng của doanh nhân Việt Nam còn quá yếu, quá rời rạc và ở mức thấp, thể hiện ở ngay trong phạm vi một ngành nghề, một địa phương và rộng hơn là trong phạm vi cả nước. Sự liên kết giữa các “nhà”, liên kết theo cụm, vùng nguyên liệu đang ở mức thấp. Chủ trương thành lập những tập đoàn kinh tế còn vấp phải những rào cản nội tại: Thông tin của doanh nghiệp thường thiếu độ tin cậy, ảnh hưởng đến việc liên kết ngang; quy định của Nhà nước cho các hoạt động liên kết chưa đầy đủ…

    Trái với phần lớn doanh nghiệp Việt Nam, nhiều doanh nghiệp nước ngoài khi vào thị trường Việt Nam đã biết kết hợp với các doanh nghiệp trong nước để thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Có thể kể đến như trường hợp Hãng Pepsi kết hợp với Kinh Đô; các hãng điện tử như Samsung, LG, Toshiba kết hợp với siêu thị Nguyễn Kim… Tại sân nhà, rất nhiều sản phẩm của chúng ta đang bị áp đảo và phải cạnh tranh gay gắt trước sức mạnh liên kết của các công ty, tập đoàn nước ngoài. Trong điều kiện hiện nay, hợp tác với nhau và với nhà đầu tư nước ngoài là một cách tốt để doanh nghiệp tồn tại và tạo khả năng cạnh tranh.

    Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt”, dựa dẫm

    Ở nước ta, đặc tính coi trọng quan hệ cá nhân, xu hướng cá nhân hóa các mối quan hệ kinh doanh, ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước vẫn tồn tại khá phổ biến. Nhiều doanh nghiệp tập trung thời gian và tiền bạc cho một hoặc một số nhân vật quan trọng của đối tác, cho các mối quan hệ cá nhân giữa người kinh doanh mà cụ thể hơn là người bán hoặc mua với người có thẩm quyền quyết định của bên đối tác mua hoặc bán. Nhiều doanh nghiệp thành công nhờ vào mối quan hệ rộng hơn là nhờ vào năng lực. Xu hướng dựa vào quan hệ rộng như là một chủ bài, mạnh hơn cả năng lực, và xu hướng nhờ vả, chạy chọt hiện đang tồn tại ở mức đáng kể. Lợi ích quá nhiều từ quan hệ cá nhân, tranh giành đất đai, dùng quan hệ để thắng thầu bất chính, thậm chí dùng cả quyền lực để bóp méo lực lượng thị trường như phân phối quota xuất nhập khẩu… là những hiện tượng đang gây bức xúc trong toàn xã hội. Những cái lợi mà việc thân quen đem lại là một cám dỗ lớn hơn rất nhiều so với cái cực nhọc phải đầu tư để đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đa phần các nhà kinh doanh của chúng ta dường như hiển nhiên công nhận mối quan hệ này tốt hay xấu có tính chất quyết định tới sự thành bại. Họ cho rằng, nếu “thân quen” được với sếp của đối tác thì về cơ bản là đã thành công, lúc này thì mọi trở ngại về chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thậm chí giá cả cũng chỉ là chuyện “nhỏ”. Cám dỗ về đặc quyền, đặc lợi, dựa dẫm đang là lực cản rất lớn. Cuộc đấu tranh quyết liệt chống tham nhũng và làm trong sạch bộ máy công quyền sẽ là một trong những yếu tố có tính quyết định trong việc xóa bỏ tình trạng “chạy cửa sau” và phục hồi luật chơi minh bạch trên thương trường.

    Xem nhẹ chữ tín

    Buôn bán phải giữ chữ tín, đó chính là VHKD được bắt nguồn từ khi hình thành thị trường. Trong tập quán du di, “chín bỏ làm mười” của nền kinh tế tiểu nông, chữ tín không được đề cao. Theo nhiều nhà kinh doanh nước ngoài, các doanh nhân Việt Nam không coi trọng chữ tín, hay viện dẫn các lý do khách quan để khước từ việc thực hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Bản thân người Việt chưa tin người Việt. Nếu có chọn lựa thì người Việt sẽ làm ăn với các công ty ngoại quốc, nhất là của các nước Âu, Mỹ, hơn là Việt Nam. Đây là hiểm họa cho các cơ sở kinh tế Việt Nam về lâu về dài khi mà các hiệp ước kinh tế mở cửa thị trường Việt Nam cho các cơ sở kinh tế của châu Âu, Mỹ như ngân hàng, bảo hiểm, tín dụng, hàng không… ồ ạt vào kinh doanh tại Việt Nam.

     

    XÂY DỰNG VHKD VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP

    Từ những rào cản, bất cập nêu trên, có thể đề xuất một số giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam xây dựng VHKD trong thời kỳ hội nhập là:

    Thích ứng với tập quán kinh doanh quốc tế

    Kinh doanh quốc tế dựa trên một loạt thông lệ và quy chuẩn. Các thông lệ và quy chuẩn này là thành tựu chung của loài người. Chúng cấu thành nên một phần không thể thiếu của VHKD. Không nắm vững các thông lệ và quy chuẩn thì khó có thể được coi là có văn hóa trong kinh doanh, và cũng rất khó kinh doanh. Khi hội nhập, văn hóa doanh nghiệp sẽ thay đổi và trở thành thách thức, mọi nhân viên trong doanh nghiệp sẽ phải thay đổi để thích nghi với các quy trình kinh doanh mới, được chuẩn hóa. Ở một cấp độ cao hơn, còn có thể xảy ra “xung đột văn hóa” trong nội bộ doanh nghiệp. Tham gia vào WTO và kinh doanh trong “thế giới phẳng”, các doanh nghiệp phải vượt qua chính mình, phải hiểu biết và thành thạo “luật chơi” mới, biết liên kết với những đối tác đáng tin cậy. Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung vẫn còn rất “bỡ ngỡ” với các tiêu chuẩn của hội nhập như: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, an toàn vệ sinh lao động và hệ thống quản lý môi trường; phong cách làm việc chuyên nghiệp; tính sáng tạo, đổi mới, sẵn sàng hợp tác. VHKD của doanh nghiệp Việt Nam cần phải thay đổi theo hướng sẵn sàng liên kết, hợp tác để đôi bên cùng có lợi thay vì chỉ nghĩ đến quyền lợi của bản thân mình. Tinh thần hợp tác, cùng làm ăn, cùng có lợi và cùng làm giàu phải được xem trọng và đặt chữ tín lên hàng đầu để thay đổi một hình ảnh doanh nghiệp Việt Nam chỉ thích làm ăn riêng lẻ, nghĩ đến quyền lợi của mình thay vì quyền lợi của cả cộng đồng.

    Nâng cao tố chất của doanh nhân Việt Nam

    Có tư duy và tầm nhìn toàn cầu: Thách thức lớn nhất đối với doanh nhân Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó là tầm nhìn và ý thức hội nhập chứ không phải là vốn hay công nghệ. Thiếu vốn có thể vay được, thiếu công nghệ có thể mua nhưng thiếu tầm nhìn, thiếu ý thức thì rất khó cạnh tranh và thành công trên trường kinh doanh quốc tế. Điều kiện quyết định để giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế chính là nâng cao tư duy và tầm nhìn của mỗi doanh nhân. Tham gia hội nhập, mỗi doanh nhân Việt Nam cũng đồng thời phải là “doanh nhân toàn cầu”, với ý nghĩa là có tầm nhìn toàn cầu, hoài bão toàn cầu, ý chí kinh doanh toàn cầu, và từ đó, đề ra và quyết định những giải pháp để đưa doanh nghiệp của mình ra toàn cầu một cách thắng lợi, giảm thiểu những thua thiệt có thể xảy ra. Khi có một tầm nhìn đủ rộng, đủ xa và thực hiện bằng cái đạo kinh doanh, nghĩa là dùng sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp mình như là phương tiện để giải quyết các vấn đề của xã hội, doanh nghiệp Việt Nam ắt hẳn sẽ có một vị thế xứng đáng trong cuộc đua tranh toàn cầu. Ngày nay, tầm nhìn của doanh nhân Việt Nam phải là tầm nhìn có tính toán căn cơ dài hạn, có chiến lược phát triển doanh nghiệp một cách bền vững, không thể là làm ăn nhỏ lẻ, thậm chí “đánh quả”, làm mất uy tín của sản phẩm và của doanh nghiệp.

    Dám đổi mới, dám làm, chấp nhận mạo hiểm, rủi ro: Chúng ta đều biết, dám đổi mới, dám làm, chấp nhận mạo hiểm, rủi ro là những tố chất, là tiêu chuẩn hàng đầu của tinh thần doanh nhân. Chỉ những doanh nhân, doanh nghiệp dám chuyển đổi những ý tưởng sáng tạo thành những hoạt động đổi mới, luôn tìm kiếm và nắm bắt cho bằng được các cơ hội do công nghệ và thị trường mang lại; dám đối diện với các tập đoàn hùng mạnh nước ngoài, hợp tác và cạnh tranh với họ, cùng suy nghĩ và hành động với họ mới có thể trưởng thành và phát triển.

    Khi hội nhập, yếu tố sáng tạo, đổi mới là yêu cầu quan trọng nhằm tạo ra năng lực cạnh tranh mới. Khi sáng tạo có nghĩa là “đi những con đường người khác chưa đi, làm những việc mà người khác chưa làm” thì cũng có nghĩa là sự rủi ro trong kinh doanh sẽ tăng lên, và bao giờ cũng đi liền với mạo hiểm. Người ta đã nói về sự phá sản của các doanh nghiệp thua lỗ là “sự tàn phá sáng tạo” để thông qua đó các nguồn lực xã hội, kể cả những doanh nhân đó sẽ được chuyển sang các lĩnh vực kinh doanh khác có hiệu quả hơn.

    Để doanh nhân tăng cường tố chất sáng tạo, đổi mới, phải phát triển các cơ sở đào tạo, cung cấp cho xã hội kiến thức kinh doanh nói chung và cung cấp cho các nhà kinh doanh những kiến thức kinh doanh chuyên nghiệp. Cho nên, việc phát triển các cơ sở đào tạo những nhà kinh doanh, những nhà quản lý kinh tế chuyên nghiệp là một việc cấp bách cần phải làm ngay.

    Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh

    Nền kinh tế hội nhập chỉ thành công khi doanh nghiệp, doanh nhân được giải phóng, được tập trung trí tuệ của mình cho tư duy sáng tạo, cho việc tìm và nắm bắt cơ hội, cho sự thành công của sự nghiệp kinh doanh. Để doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam hội nhập kinh tế thành công, chúng ta phải xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch, hạn chế nảy sinh tiêu cực; phải có một hệ thống pháp luật đảm bảo rằng, những ai đi ngược lại sẽ phải chịu tổn thất về kinh tếù.

    Xây dựng văn hóa kinh doanh (VHKD) là mục tiêu nhưng lại là thách thức lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ những hạn chế, bất cập trong VHKD Việt Nam, từ đó tìm ra hướng đi cho doanh nghiệp, doanh nhân để có thể tích cực, chủ động trong hội nhập, đảm bảo xây dựng nền VHKD Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững nền kinh tế đất nước trong thời gian tới.

    Doanh nghiệp Việt Nam rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc cải tạo môi trường kinh doanh ngày càng phát triển, tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp như: Cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật, các chính sách, chế độ liên quan; hệ thống thông tin quốc gia. Nhà nước cần có chính sách, chiến lược phát triển kinh tế phù hợp, nhất quán, đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hợp lý, linh hoạt. Chính phủ cũng cần tiếp tục đẩy mạnh các mối quan hệ ngoại giao để thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển, tạo cơ hội cho doanh nghiệp, doanh nhân vươn ra thế giới; tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam.

    Vai trò chủ thể của Nhà nước chính là ở chỗ định hướng, tạo môi trường pháp lý, quyết định thể chế và chính sách khuyến khích, trợ giúp, cải cách hành chính, thanh tra, kiểm tra… tạo nên năng lực cạnh tranh quốc gia làm nền tảng cho việc xây dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi ngành kinh tế, nhất là của doanh nghiệp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của các cơ quan nhà nước là hết lòng chăm lo cho doanh nghiệp, không để doanh nghiệp “đơn thương độc mã” trong cuộc chiến toàn cầu.

    PHÁP LUẬT và ĐỜI SỐNG

    Luật cạnh tranh số 27 năm 2004

    Luật này quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2005.

    Phạt 5 công ty kinh doanh đa cấp gần 1,4 tỷ đồng

    Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) đã ban hành quyết định xử phạt đối với 5 công ty bán hàng đa cấp... vì vi phạm hàng loạt quy định liên quan tới giấy chứng nhận đăng ký hoạt động và đưa thông tin gây nhầm lẫn về công dụng của sản phẩm.

    Thu hồi thêm trà C2 và Rồng đỏ vì lượng chì vượt chuẩn

    Căn cứ Điều 22 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và báo cáo của Công ty URC Hà Nội, sản phẩm bị thu hồi là lô sản phẩm nước tăng lực Rồng đỏ hương dâu có ngày sản xuất 10/11/2015 và hạn sử dụng 10/8/2016 và lô sản phẩm trà xanh hương chanh C2 có ngày sản xuất 4/02/2016 và hạn sử dụng là ngày 4/2/2017.

    Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010

    Luật này quy định về quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

    Toàn văn thư xin lỗi của lãnh đạo Formosa Hà Tĩnh

    Sáng 30/6/2016, lãnh đạo Formosa Hà Tĩnh đã gửi thư tới CBCNV doanh nghiệp này nhận đã gây ra hiện tượng cá chết. Cụ thể, ông Trần Nguyên Thành, Chủ tịch HĐQT Công ty Gang thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh đã gửi thư trấn an cán bộ, nhân viên Formosa tiếp tục an tâm làm việc.

    Chủ tịch nước: Lùi hiệu lực 4 luật đến khi sửa sai xong

    Bộ luật Hình sự có sai sót tại một số điều luật, ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật và xử lý tội phạm... Sáng 30/6/2016, Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức họp báo thông báo lệnh của Chủ tịch nước Trần Đại Quang công bố nghị quyết về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự năm 2015 và ba đạo luật khác có liên quan.

    Ba luật liên quan đến Bộ Luật hình sự cũng hoãn thi hành

    Nếu như lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự sửa đổi từ ngày 1-7 thì đồng thời phải lùi thời hạn thi hành của các luật liên quan là Luật tố tụng Hình sự sửa đổi, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.

    Thưa Thủ tướng! Máy bay của Thủ tướng không bị delay nhưng ai cũng bị cả!

    Báo cáo các anh, nếu căn cứ vào luật thì lại tắc rồi, bởi vì trong nghị quyết của Bộ Chính trị đã nói cho phép TP thực hiện thí điểm những gì từ thực tiễn của TP mà trong luật chưa quy định, hoặc có quy định nhưng lạc hậu. Ông Thăng rất “mong hôm nay Thủ tướng kết luận những vấn đề hết sức cụ thể. Cái gì được thì đề nghị Thủ tướng quyết cho là được, nếu Thủ tướng mà giao cho các bộ thì sẽ lại là “ghi nhận” và “theo quy định hiện hành thì không được” thế là hết luôn”.

    Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015

    Luật này quy định nguyên tắc, thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2016.

    Nghị quyết phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 6/2016

    Kể từ ngày 1/7/2016, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực. Chính phủ cam kết luôn đồng hành, lắng nghe và tiếp thu ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân để hoàn thiện thể chế phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phát triển sản xuất, kinh doanh.

    [ 12 3 4 5

    Hưng Thịnh: Thông tin mới nhất Hung-Thinh-group: Cty thành viên
    Công ty Hưng Thịnh
    Ban lãnh đạo
    Tầm nhìn - Sứ mệnh
    Sơ đồ tổ chức
    Công ty thành viên
    Văn hóa doanh nghiệp
    Văn phòng luật sư
    Phản ánh, khiếu nại, tố cáo
    Xây dựng pháp luật
    Giám đốc Điều hành
    253-255 Nguyễn Biểu, P2, Q5, TP.HCM.
    Tel: 08.38363939, Fax: 08.39234131
    Hotline: 0907775858
    Email: info@hungthinhgroup.net
    Website: law.hungthinhgroup.net

    [1499] [649] - Cty seo: Ba Thành