HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
| ||||||
BẢN ÁN SƠ THẨM Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh. Về việc: “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật”. 1. Bản án thể hiện không đúng nội dung đơn khởi kiện và phiên tòa sơ thẩm. a) Bản án thể hiện nội dung trình bày của ông Thành không đầy đủ, không chính xác và hoàn toàn trái với Đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày 04/09/2013. b) Bị đơn là Công ty Quốc tế không tham gia tố tụng nhưng Bản án vẫn thể hiện nội dung trình bày của Bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm ngày 04/09/2013. 2. Ông Thành khởi kiện Công ty Quốc tế đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động miệng chứ không phải hợp đồng thử việc. Thông báo thụ lý vụ án số 56/TB-TA ngày 30/05/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh là thụ lý vụ án lao động, về việc: “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”. Nhưng Bản án lại thể hiện áp đặt việc khởi kiện là “đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc”, trái với việc khởi kiện của ông Thành và mâu thuẫn với Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án. 3. Tranh chấp lao động là lý do mà Công ty Quốc tế cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải là ông Thành gây ra 3 lỗi “1. Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu; 2. Nhưng không biết nhận lỗi; 3. Báo giá mua lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua”. Tuy nhiên, Bản ản thể hiện Tòa án áp đặt tranh chấp lao động là đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc, làm phát sinh tranh chấp hành chính giữa ông Thành và Tòa án về hợp đồng thử việc của vụ án lao động. 4. Lý do là 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 phải được SMI chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp theo quy định tại Điều 87 Bộ luật lao động để thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải tại Điều 38 và Điều 85 Bộ luật này. Tuy nhiên, SMI không chứng minh theo Điều 87 và thực hiện đơn phương chấm dứt hợp đồng theo hình thức sa thải hoàn toàn trái Điều 85 và Điều 38 Bộ luật lao động. Mặt khác, Công ty Quốc tế, Cơ quan hòa giải lao động và Tòa án áp dụng Điều 32 Bộ luật lao động trong khi ông Thành và SMI không thỏa thuận thực hiện nội dung thử việc là hoàn toàn không chính xác và trái pháp luật. 5. Bản án thể hiện Tòa án áp đặt 2 trong 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành nhưng không thể hiện được tài liệu nào, chứng cứ nào chứng minh việc báo giá và việc đổ xăng là lỗi. a) Bản án không giải thích được “Tại sao việc ông Thành báo cáo hai lốp xe ôtô hiệu Captival hư phải thay với giá quá cao là lỗi?”. b) Bản án không giải thích được “Tại sao đổ xăng vào xe chạy dầu Diesel trong khi nắp bình nhiên liệu có ghi dòng chữ Diesel là lỗi?”. c) Bản án không có nội dung nào chứng minh lỗi “1. Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu; 2. Nhưng không biết nhận lỗi; 3. Báo giá mua lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua” là lỗi của ông Thành và là lý do có căn cứ và hợp pháp để SMI đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông Thành theo hình thức sa thải. d) Phần Xét thấy của Bản án không cho biết ông Thành gây ra lỗi gì và không đạt yêu cầu như thế nào? 6. Biên bản hòa giải lao động ngày 24/04/2013 của Phòng Lao động Thương Binh và Xã hội quận Bình Thạnh thể hiện Công ty Quốc tế (SMI) không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của SMI là lỗi của ông Thành thì ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi. Tuy nhiên, Bản án không thể hiện ông Thành vẫn cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp. 7. Khi có kết luận 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của SMI không phải là lỗi của ông Thành (NLĐ) thì Công ty Quốc tế (NSDLĐ) phải nhận NLĐ trở lại làm việc và thời gian NLĐ không được làm việc do phải thực hiện Quyết định này được tính là thời gian làm việc. NLĐ được trả đủ tiền lương, phụ cấp cho những ngày không được làm việc. Các quyền và lợi ích hợp pháp khác (bảo hiểm, ngày nghỉ hàng năm, trợ cấp thôi việc…) của NLĐ được khôi phục thực hiện từ thời điểm xác lập hợp đồng lao động là ngày 26/02/2013. NSDLĐ phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý và trách nhiệm bồi thường phát sinh theo quy định của pháp luật do hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Thứ nhất, nghĩa vụ pháp lý là SMI phải hủy Quyết định Số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 và có quyết định xin lỗi ông Thành do Tổng giám đốc trực tiếp ký theo quy định tại Điều 94 Bộ luật Lao động, Điều 9 Bộ luật dân sự. Thứ hai, SMI phải thực hiện trách nhiệm bồi thường một khoản tiền cho ông Thành theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 41, khoản 1 Điều 42, Điều 59, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Lao động, Điều 9, khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự và Điều 14, Điều 16 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Vì lẽ trên, nội dung yêu cầu bồi thường theo pháp luật lao động thể hiện trong Đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày 04/09/2013 và trong Đơn kháng cáo sửa đổi, bổ sung ngày 12/09/2014 là các yêu cầu không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện của tranh chấp lao động (thể hiện trong đơn khởi kiện là về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật) phát sinh theo thời gian thực tế giải quyết vụ án lao động trong phạm vi khởi kiện của quan hệ pháp luật là quan hệ lao động. 8. Chỉ khi nào chứng minh được 3 lỗi “1. Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu; 2. Nhưng không biết nhận lỗi; 3. Báo giá mua lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua” là lỗi của ông Thành thì mới xét tiếp lý do có căn cứ và hợp pháp để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp chưa hết thời gian thử việc theo qui định và đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc. Tuy nhiên, Tòa án lợi dụng việc ông Thành giải thích về tính pháp lý của hợp đồng lao động miệng để bịa đặt ra hợp đồng thử việc không có nội dung thử việc. Do đó, Bản án cho rằng Công ty Quốc tế không vi phạm thời gian thử việc, không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện hợp đồng lao động không xác định thời hạn, nghề lái xe thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP là sai sự thật và trái pháp luật. 9. Tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan Sai phạm của Thẩm phán Trần Đăng Tân thể hiện theo Công văn số 4545/GBT-VPTU ngày 24/04/2017 của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh là “hành vi tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan” trong quá trình xét xử và ra Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013. Ông Trần Đăng Tân không đủ tư cách đạo đức công vụ, đạo đức cách mạng để làm Thẩm phán, Phó Chánh án và Chánh án. Việc ông Trần Đăng Tân được thăng chức từ Phó Chánh án lên Chánh án chỉ làm gia tăng thêm sự mất niềm tin của Nhân dân vào Đảng và Tòa án. ![]() ![]() ![]() ![]() MH47 | ||||||
|