HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
Thương Hiệu Doanh Nghiệp là cái tên dễ nhớ, gần gũi và Thương Hiệu là mục tiêu chung của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi hội tụ Thành công - Thịnh vượng - Phồn vinh của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi tôn vinh và khẳng định đẳng cấp thương hiệu của doanh nghiệp thương hiệu.

HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG

Về việc: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành

Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (Viết tắt là Công ty Quốc tế hoặc SMI)

Cơ quan hòa giải lao động: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Tòa án sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Tòa án phúc thẩm: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn; Tranh chấp về hành chính giữa Nguyên đơn và Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Chứng minh và chứng cứ: HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng được lỗi của ông Thành thì chỉ cần Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI cũng đủ chứng cứ chứng minh SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt nội dung án oan sai: Ông Thành vẫn  hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm chứng minh Tòa án hai cấp đã không căn cứ chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành mà chỉ căn cứ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty Quốc tế để giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

- Hồ sơ vụ án lao động sơ thẩm số 56/2013/TLLĐ-ST ngày 30/5/2013 và vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có tài liệu không hợp pháp nhưng được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án; có tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp nhưng bị cố ý bỏ qua theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng; không có tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành vì Tòa án hai cấp không thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ và Tòa án phúc thẩm không lập biên nhận tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành.

- Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 là các bản án được xét xử trái pháp luật và theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.


Án oan sai: Ai làm gì được ta?

Tòa án lạm quyền tùy tiện thay đổi thẩm phán phụ nhưng không tuân thủ pháp luật thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự là không công bằng.

Cản trở việc khởi kiện bằng yêu cầu Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng miệng. Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là chứng cứ chứng minh hợp đồng miệng được Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án ngay từ khi nộp đơn khởi kiện nhưng Tòa án lại trả lời khiếu nại rằng Nguyên đơn không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu... chỉ là hai trong số nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền.

Lạm quyền tiếp tay cho lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động của Công ty Quốc tế nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan hòa giải lao động lẩn trốn yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những cán bộ có sai phạm và khai trừ đảng đối với những đảng viên có sai phạm.

Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? Ai? Không ai? Vậy thì ta cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật nghiêm trọng, thản nhiên ra quyết định trái pháp luật rất nghiêm trọng và ngang nhiên ban hành bản án trái pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án oan sai này là minh chứng cho tuyên bố bất chấp pháp luật của ta.

  
Lý do không được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp


Căn cứ Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS thì
ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi và
Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18 là chứng cứ chứng minh SMI đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.


“Xe Captival 52LD-4812 máy dầu bị đổ nhầm xăng vẫn chạy bình thường”


Chữ ký trong Quyết định số 18 và Giấy ủy quyền khác nhau


Lốp cũ xe CAPTIVAL của Nhật (MADE IN JAPAN)


Lốp mới xe CAPTIVAL của Thái Lan (THAILAND)


Nhân chứng xác nhận báo giá của mình

(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật

THÔNG TIN MỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUẢNG CÁO - LIÊN KẾT
Võ Thuật


QUẢNG CÁO

0912 82 2628

ĐƠN KHIẾU NẠI
Sửa đổi, bổ sung
Ngày 03 tháng 09 năm 2015

Kính gửi: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

I. NGƯỜI BỊ KHIẾU NẠI

Cơ quan và người tiến hành tố tụng

1.    Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Ông Nguyễn Văn Châu - Phó Chánh án

Bà Trịnh Ngọc Thúy       - Thẩm phán, Phó Chánh văn phòng

Trần Xuân Thủy       - Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa phúc thẩm

Ông Nguyễn Văn Xuân - Thẩm phán

Ông Đỗ Giang                  - Thẩm phán

Trần Thị Hiển            - Cán bộ, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa

Phạm Thị Nguyên     - Cán bộ, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa

2.    Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Nguyễn Thị Én                      - Kiểm sát viên

Bà Nguyễn Thị Thúy Phượng   - Kiểm sát viên

Đương sự của vụ án

1.    Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Ông Phạm Doãn Hiếu     - Chánh án

Bà Lê Thị Hoài Yến        - Thẩm phán

Ông Trần Đăng Tân       - Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa sơ thẩm

Ông Mã Văn Trọng        - Hội thẩm nhân dân

Bùi Thị Cẩm Vân      - Hội thẩm nhân dân

Ông Đoàn Quốc Dũng    - Cán bộ, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa

2.    Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh

a)    Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Ông Nguyễn Văn Cang  - Trưởng phòng

Ông Nguyễn Văn Ngọc   - Hòa giải viên, Phó Trưởng phòng

Ông Phạm Bình Phương Minh Hải - Hòa giải viên, cán bộ lao động - tiền lương

b)    Phòng Tiếp công dân

Ông Nguyễn Đình Phi     - Cán bộ Tiếp công dân

II. NỘI DUNG KHIẾU NẠI

CĂN CỨ

- Căn cứ Luật khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11 tháng 11 năm 2011;

- Căn cứ Luật tố cáo số số 03/2011/QH13 ngày 11 tháng 11 năm 2011;

- Căn cứ Bộ Luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự ngày 29 tháng 3 năm 2011 (Viết tắt là BLTTDS);

- Căn cứ Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân các số 34/2002/QH10 ngày 2 tháng 4 năm 2002 và số 63/2014/QH13 ngày 24 tháng 11năm 2014;

- Căn  cứ Luật giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005;

- Căn cứ Cơ sở dữ liệu tại hệ thống thông tin ThuongHieudoanhNghiep.VN/smi do ông Thành tạo lập để cung cấp thông điệp dữ liệu là thông tin phản ánh, khiếu nại, khởi kiện, kháng cáo, kiến nghị của ông Thành (sau đây viết tắt là Hồ sơ điện tử Vụ án SMI);

- Căn cứ các đơn khiếu ngày 29/10/2014 và ngày 14/11/2014 của ông Thành;

- Căn cứ Phiếu thông báo và chỉ dẫn số 412/VKS-P7 ngày 30/10/2014 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

1. Quy định của pháp luật

2. Nội dung khởi kiện của ông Thành

3. Phương án hòa giải của Hòa giải viên có nhiều mâu thuẫn và trái pháp luật

a) Xem tại Đơn khiếu nại Văn bản số 777.
b) Xem tại Đơn khiếu nại Văn bản số 451.
c) Xem tại Biên bản hòa giải lao động.

4. Bác bỏ toàn bộ bản án của Tòa án do có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án

5. Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và tranh chấp hành chính

6. Không chủ động phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án

7. Tóm tắt nội dung làm việc ngày 05/12/2014 về Đơn khiếu nại ngày 14/11/2014

Đơn khiếu nại ngày 14/11/2014 khiếu nại việc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trả lại Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 theo Phiếu thông báo và chỉ dẫn số 412/VKS-P7 ngày 30/10/2014. Ngày 05/12/2014 ông Thành đến Viện kiểm sát làm việc theo Giấy mời số 03/GM-P7 ngày 27/11/2014, nội dung làm việc được tóm tắt như sau:

Thứ nhất, về nội dung hướng dẫn ông Thành làm lại đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm: Ông Thành yêu cầu Viện kiểm sát rút kinh nghiệm hướng dẫn phải trích dẫn căn cứ văn bản pháp luật cụ thể để tránh người dân hiểu nhầm Viện kiểm sát hướng dẫn theo ý chí chủ quan.

Thứ hai, về nội dung hướng dẫn ông Thành làm đơn tố cáo theo từng nội dung riêng: Ông Thành giữ nguyên quan điểm trong Đơn khiếu nại ngày 14/11/2014. Người bị khiếu nại là cơ quan và người tiến hành tố tụng, đương sự, người làm chứng của vụ án thì đương nhiên thuộc thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Viện kiểm sát. Việc khiếu nại về hành vi vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án và trong việc giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát.

Thứ ba, về thẩm quyền giải quyết khiếu nại Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014: Viện kiểm sát cho biết sẽ chuyển Đơn khiếu nại này cho Phòng Nghiệp vụ của Viện kiểm sát để giải quyết theo thẩm quyền.

Thứ tư, về yêu cầu giải quyết khiếu nại: ông Thành bảo lưu một phần khiếu nại trong Đơn khiếu nại ngày 14/11/2014 do phải chờ Viện kiểm sát giải quyết khiếu nại theo Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014.

XÉT THẤY

8. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên, Viện trưởng và Viện kiểm sát nhân dân

Kiểm tra, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự là nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm sát viên và Viện trưởng Viện kiểm sát quy định tại các Điều 44, 45 của Bộ luật tố tụng dân sự. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong tố tụng dân sự được bảo đảm quy định tại các Điều 24, 44, 58, 59 của Bộ luật này. Ngoài ra, khiếu nại và giải quyết khiếu nại phải tuân theo Luật khiếu nại, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật liên quan.

9. Khiếu nại của ông thành là có cơ sở và phù hợp với thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, ông Thành có quyền khiếu nại và Viện kiểm sát có quyền phát hiện Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 trong Hồ sơ vụ án lao động số 91/2013/LĐPT của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là bản án (i) có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án, (ii) có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, (iii) có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật và (iv) có kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. Khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì Viện kiểm sát phải thông báo bằng văn bản cho người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Thứ hai, khiếu nại và giải quyết khiếu nại (i) về việc tiến hành tố tụng của Tòa án và Viện kiểm sát không đảm bảo xét xử vô tư, công bằng, chính xác và đúng pháp luật, (ii) về hành vi vi phạm tố tụng dân sự của Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én, (iii) về hành vi phạm pháp luật của Kiểm sát viên Nguyễn Thị Thúy Phượng.

Thứ ba, khiếu nại và giải quyết khiếu nại về việc giải quyết khiếu nại của các cơ quan tiến hành tố tụng và đương sự là cơ quan có thẩm quyền liên quan (i) có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, (ii) không được thực hiện theo quy định của pháp luật, (iii) không bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời.

Thứ tư, khiếu nại và giải quyết khiếu nại về danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành bị xâm phạm nghiêm trọng.

KẾT LUẬN

10. Sự hài lòng của người dân là thước đo hiệu quả công việc và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát nhân dân

Chỉ cần căn cứ Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 cũng đủ cơ sở kết luận SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì đương nhiên Bản án phúc thẩm là chứng cứ chứng minh các hành vi vi phạm pháp luật của những người tiến hành tố tụng.

Tuy nhiên:

Thứ nhất, ông Thành không hài lòng về việc ngày 05/08/2015 ông Thành phải nộp Đơn nhắc nhở Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 theo yêu cầu của Kiểm sát viên Huỳnh Ngọc Phương.

Thứ hai, ông Thành rất không hài lòng về việc ngày 18/08/2015 Kiểm sát viên Nguyễn Thị Thúy Phượng và Phan Nhứt Thống trả lời là không biết Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 đang ở đâu, ai xử lý đơn, trước đó Kiểm sát viên Huỳnh Ngọc Phương cũng trả lời như vậy mặc dù chính ông Phương đã trả lời là sẽ chuyển Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 cho Phòng Nghiệp vụ xử lý. Nghiêm trọng hơn, Kiểm sát viên Nguyễn Thị Thúy Phượng không biết mình là người bị khiếu nại. Rất nghiêm trọng, ngày 30/9/2015, bà Phượng đã cố ý thực hiện hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Khoản 3 Điều 6 của Luật khiếu nại là hành vi lạm quyền và tùy tiện trả lời rằng “VKSND Tp.HCM đã ban hành văn bản giải quyết khiếu nại là Văn bản số 412 (?)”.

IV. TÀI LIỆU KÈM THEO ĐƠN được sửa đổi, bổ sung như sau:

Cơ sở dữ liệu tại hệ thống thông tin ThuongHieuDoanhNghiep.VN/smi do ông Thành tạo lập (gọi tắt là Hồ sơ điện tử vụ án SMI) cung cấp thông tin về bản án sơ thẩm và phúc thẩm, đơn khởi kiện, đơn kháng cáo, đơn khiếu nại và các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu đương nhiên có giá trị pháp lý là chứng cứ chứng minh khiếu nại và yêu cầu giải quyết khiếu nại của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp.

Hồ sơ điện tử vụ án SMI có thể được sửa đổi, bổ sung và đã được sửa đổi, bổ sung như sau:

Thứ nhất, bổ sung Văn bản số 451/LĐTBXH ngày 27/6/2014 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh và Đơn khiếu nại ngày 14/7/2015 khiếu nại Văn bản này; Văn bản số 2299/TATP-VP ngày 06/11/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Đơn khiếu nại ngày 17/11/2014 khiếu nại Văn bản này tới Tòa án nhân dân tối cao; tài liệu liên quan khác.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung và hợp nhất các tài liệu gồm đơn khởi kiện, đơn kháng cáo, đơn khiếu nại, văn bản tranh luận sơ thẩm và phúc thẩm, văn bản chứng minh và chứng cứ, văn bản khác.

V. YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI được sửa đổi, bổ sung như sau:

1. Căn cứ khoản 2 Điều 17 và các điều 44, 282, 283 và khoản 2 Điều 284 của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung. Viện trưởng hoặc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều 285 của Bộ luật này để xét lại Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm.

2. Áp dụng hình thức xử lý kỷ luật cách chức Kiểm sát viên đối với:

a) Bà Nguyễn Thị Én.

Lý do: Là Kiểm sát viên tiến hành tố tụng dân sự và xét xử vụ án lao động số 91/2013/LĐ-PT ngày 9/12/2013 nhưng đã không kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 4 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; không kiểm sát các bản án và quyết định của Toà án theo quy định tại khoản 3 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 6 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; không kiểm sát việc giải quyết các vụ án lao động và những việc khác (khiếu nại, thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thay đổi người tiến hành tố tụng, thụ lý vụ án, xét xử tại phiên tòa…) theo quy định tại khoản 4 Điều 3, Điều 6, Điều 11, khoản 7 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định tại khoản 9 Điều 2 Luật khiếu nại.

b) Bà Nguyễn Thị Thúy Phượng.

Lý do: Là Kiểm sát viên giải quyết khiếu nại nhưng lại tùy tiện ký vào Văn bản số 412/VKS-P7 ngày 30/10/2014 về việc trả lại đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; Nhưng không biết mình là người bị khiếu nại; Bà Phượng yêu cầu ông Thành viết quá nhiều đơn so với quy định của pháp luật (Bà Phượng yêu cầu viết đơn khiếu nại Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én, đơn đề nghị xem xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, đơn khiếu nại bản án theo ý chí chủ quan; ông Thành chỉ viết một đơn khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật).

3. Kiểm tra và giám sát việc tuân theo pháp luật của những người bị khiếu nại ở trên:

Thứ nhất, cung cấp cho ông Thành giấy ủy quyền ngày 25/11/2013 và giấy ủy quyền không rõ ngày của SMI; Đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 19/03/2014 của bà Hồ Thị Bảo Châu; Biên bản phiên tòa phúc thẩm các ngày 26/02/2014, 28/03/2014, 23/07/2014, 12/09/2014 và các quyết định phân công, thay đổi Thẩm phán, Thư ký của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; Biên bản nghị quyết không áp dụng BPKCTT ngày 04/09/2013 của Hội đồng xét xử sơ thẩm; văn bản trả lời của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh về yêu cung cấp tài liệu, chứng cứ theo Đơn yêu cầu ngày 16/04/2014 của ông Thành; văn bản trả lời của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh, Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh về yêu cung cấp tài liệu, chứng cứ theo Đơn khiếu nại ngày 14/07/2015 của ông Thành; tài liệu, chứng cứ khác mà ông Thành đã yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thu thập và cung cấp trong Đơn yêu cầu ngày 29/04/2014.

Thứ hai, cho ông Thành xem lại toàn bộ hồ sơ vụ án lao động số số 91/2013/LĐPT ngày 19/12/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và trả lời ông Thành Quyết định phân công thẩm phán số 56/QĐ-PCTP-LĐ ngày 30/5/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh có trái pháp luật không, tại sao?

Thứ ba, yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết khiếu nại các Đơn khiếu nại ngày 07/07/2014 đã được sửa đổi, bổ sung theo Đơn khiếu nại các ngày 18/07/2014, 03/09/2014, 29/10/2014 của ông Thành theo đúng quy định của pháp luật. Lưu ý: Ông Thành đã khiếu nại Văn bản trả lại Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 số 2299/TATP-VP ngày 06/11/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tới Tòa án nhân dân tối cao ngày 17/11/2014.

4. Cung cấp cho ông Thành: (i) Quyết định phân công Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én tham gia tiến hành tố tụng vụ án lao động số 91/2013/LĐPT; (ii) Tài liệu, chứng cứ chứng minh Kiểm sát viên Nguyễn Thị Thúy Phượng thừa lệnh Viện trưởng ra Phiếu thông báo và chỉ dẫn số 412/VKS-P7 ngày 30/10/2014.

5. Giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu quy định tại Điều 11 của Luật giao dịch điện tử thể hiện rõ “Thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu”. Điều 12 của Luật này quy định Thông điệp dữ liệu có giá trị như văn bản: “Trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết”.

Vậy, tại sao tại Đơn nhắc nhở ngày 05/08/2015 và Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 đều thể hiện ông Thành đã cung cấp đơn và tài liệu khiếu nại dưới dạng thông điệp dữ liệu lên Hồ sơ điện tử vụ án SMI (ThuongHieuDoanhNghiep.VN/smi) nhưng ngày 18/08/2015 Viện kiểm sát lại trả lời là không biết Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 đang ở đâu mà không giải quyết theo quy định của Luật này?

6. Viện trưởng giải quyết đầy đủ, chính xác, kịp thời các yêu cầu giải quyết khiếu nại trên theo đúng quy định của pháp luật.

Chúc Viện trưởng sức khỏe, trí tuệ, bản lĩnh, chí công vô tư, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Chân thành cám ơn và trân trọng kính chào!

M402

CÔNG TY TNHH MTV THƯƠNG HIỆU VẬN TẢI BA THÀNH
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.6899.6850 & 08.6899.6846 - Hotline: 0912 82 2628
Email: info@thuonghieudoanhnghiep.vn