HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
Thương Hiệu Doanh Nghiệp là cái tên dễ nhớ, gần gũi và Thương Hiệu là mục tiêu chung của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi hội tụ Thành công - Thịnh vượng - Phồn vinh của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi tôn vinh và khẳng định đẳng cấp thương hiệu của doanh nghiệp thương hiệu.

HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG

Về việc: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành

Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (Viết tắt là Công ty Quốc tế hoặc SMI)

Cơ quan hòa giải lao động: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Tòa án sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Tòa án phúc thẩm: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn; Tranh chấp về hành chính giữa Nguyên đơn và Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Chứng minh và chứng cứ: HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng được lỗi của ông Thành thì chỉ cần Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI cũng đủ chứng cứ chứng minh SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt nội dung án oan sai: Ông Thành vẫn  hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm chứng minh Tòa án hai cấp đã không căn cứ chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành mà chỉ căn cứ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty Quốc tế để giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

- Hồ sơ vụ án lao động sơ thẩm số 56/2013/TLLĐ-ST ngày 30/5/2013 và vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có tài liệu không hợp pháp nhưng được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án; có tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp nhưng bị cố ý bỏ qua theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng; không có tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành vì Tòa án hai cấp không thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ và Tòa án phúc thẩm không lập biên nhận tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành.

- Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 là các bản án được xét xử trái pháp luật và theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.


Án oan sai: Ai làm gì được ta?

Tòa án lạm quyền tùy tiện thay đổi thẩm phán phụ nhưng không tuân thủ pháp luật thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự là không công bằng.

Cản trở việc khởi kiện bằng yêu cầu Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng miệng. Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là chứng cứ chứng minh hợp đồng miệng được Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án ngay từ khi nộp đơn khởi kiện nhưng Tòa án lại trả lời khiếu nại rằng Nguyên đơn không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu... chỉ là hai trong số nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền.

Lạm quyền tiếp tay cho lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động của Công ty Quốc tế nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan hòa giải lao động lẩn trốn yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những cán bộ có sai phạm và khai trừ đảng đối với những đảng viên có sai phạm.

Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? Ai? Không ai? Vậy thì ta cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật nghiêm trọng, thản nhiên ra quyết định trái pháp luật rất nghiêm trọng và ngang nhiên ban hành bản án trái pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án oan sai này là minh chứng cho tuyên bố bất chấp pháp luật của ta.

  
Lý do không được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp


Căn cứ Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS thì
ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi và
Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18 là chứng cứ chứng minh SMI đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.


“Xe Captival 52LD-4812 máy dầu bị đổ nhầm xăng vẫn chạy bình thường”


Chữ ký trong Quyết định số 18 và Giấy ủy quyền khác nhau


Lốp cũ xe CAPTIVAL của Nhật (MADE IN JAPAN)


Lốp mới xe CAPTIVAL của Thái Lan (THAILAND)


Nhân chứng xác nhận báo giá của mình

(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật

THÔNG TIN MỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUẢNG CÁO - LIÊN KẾT
Võ Thuật


QUẢNG CÁO

0912 82 2628

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---o0o---

Hồ Chí Minh, ngày 23  tháng 09 năm 2016

ĐƠN YÊU CẦU
Cung cấp tài liệu, chứng cứ bổ sung

Kính gửi: Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh

I. ĐƯƠNG SỰ

Đương sự: Ông Nguyễn Đức Thành.     Điện thoại liên lạc: 0912.82.2628
Địa chỉ liên lạc: 248/25 Bùi Thị Xuân, Phường 3, Quận Tân Bình.
Thông tin hồ sơ vụ án: ThuongHieuDoanhNghiep.vn/smi                                          

II. LÝ DO YÊU CẦU CUNG CẤP

Trong quá trình giải quyết vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động giữa Nguyên đơn là ông Nguyễn Đức Thành và Bị đơn là Công ty TNHH Sài Gòn Đồ Gỗ Quốc Tế (viết tắt là SMI) tại Tòa án nhân dân hai cấp mà kết quả giải quyết vụ án đến thời điểm hiện nay là Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đang được ông Thành đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm xét thấy còn có những nội dung không được thể hiện trong Biên bản hòa giải lao động ngày 24/04/2013 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh nhưng có liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án lao động này. Mặt khác, ông Thành phát hiện Phương án hòa giải thể hiện trong Biển bản hòa giải này có nhiều nội dung mâu thuẫn và trái pháp luật. Nghiêm trọng hơn, những nội dung mâu thuẫn này đã bị Tòa án, Viện kiểm sát lợi dụng làm căn cứ giải quyết và xét xử vụ án sai sự thật và trái pháp luật làm xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành.

Bà Hồ Thị Bảo Châu đã thừa nhận không biết vì sao 3 lỗi trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của Công ty là lỗi của ông Thành. Đó là quyết định của ông Tổng Giám đốc, bà Châu chỉ là người thực hiện và không có quyền quyết định thay đổi Quyết định này”. Đại diện của Công ty và Hòa giải viên đã thừa nhận Công ty không chứng minh được lỗi của ông Thành theo quy định tại Điều 87 của Bộ luật lao động và không phản đối các chứng cứ, tình tiết liên quan mà ông Thành đưa ra thì đương nhiên ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minhlý do của Công ty Quốc tế là vô căn cứ và trái pháp luật theo quy định tại Điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, đã đủ cơ sở để Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc kết luận “Bác bỏ lý do cho ông Thành nghỉ việc vì Công ty không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành, Công ty cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải trái pháp luật là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì phải xin lỗi ông Thành và bồi thường cho Thành một khoản tiền theo quy định của pháp luật”. Vi phạm pháp luật nghiêm trọng, Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc cố ý đưa ra phương án hòa giải có nhiều mâu thuẫn và trái pháp luật.

Mâu thuẫn 1: Hòa giải viên (HGV) áp đặt lý do trái Điều 32 Bộ luật lao động mâu thuẫn với lý do trái Điều 87 của Bộ luật này mà SMI áp đặt. Lý do “Ông Nguyễn Đức Thành đã gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013” của SMI đương nhiên bác bỏ lý do “việc làm thử không đạt yêu cầu” của HGV. Nội dung ở trên và Mâu thuẫn 5 ở dưới chứng minh lý do của HGV và SMI là các lý do vô căn cứ và trái pháp.

Mâu thuẫn 2: Giả sử có thời gian thử việc thì 0 ngày ≤ thời gian thử việc đối với lao động sơ cấp = ? ngày theo thỏa thuận ≤ 6 ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Nghề lái xe là lao động sơ cấp theo quy định tại khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT. Không chứng minh được có thỏa thuận về thời gian thử việc theo quy định tại Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động thì đương nhiên thời gian thử việc theo quy định là 0 ngày. Từ ngày 01 đến ngày 26 là bao nhiêu ngày và thời gian thử việc được thỏa thuận từ ngày nào đến ngày nào mà HGV tùy tiện áp đặt “ông Thành đang trong thời gian thử việc” và không bác bỏ nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” tại Quyết định số 18 của SMI?

Mâu thuẫn 3: Giả sử có việc làm thử thì HGV tiến hành hòa giải không khách quan, không chính xác và trái pháp luật khi cho rằng SMI có quyền tùy tiện hủy bỏ thỏa thuận làm thử. HGV căn cứ Điều 32 của Bộ luật lao động mâu thuẫn với nội dung việc làm thử mà hai bên thỏa thuận không được xác định là những nội dung nào (?), ông Thành không đạt yêu cầu nào của SMI (?) hay SMI không đạt yêu cầu nào của ông Thành (?), mâu thuẫn với nội dung “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/203”, mâu thuẫn với pháp luật lao động không quy định người lao động phải thực hiện nghĩa vụ thử việc, mâu thuẫn với thực tiễn chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm quyết định y án sơ thẩm được ban hành, trái với Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh HGV không có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe.

Mâu thuẫn 4: HGV cho rằng “ông Thành không chứng minh được việc mình đã làm là đúng (?)”. Nội dung này mâu thuẫn với bà Châu là đại diện của SMI đã thừa nhận “Không biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành”, mâu thuẫn với HGV đã thừa nhận “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18”, mâu thuẫn với quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh của ông Thành theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự, mâu thuẫn với thực tế là ông Thành đã chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 không phải là lỗi của ông Thành như HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận.

Mâu thuẫn 5: HGV và SMI đã thừa nhận “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18” theo Mâu thuẫn 4 thì đương nhiên lý do của SMI và HGV là các lý do vô căn cứ và trái pháp luật. Giả sử có thử việc thì tại thời điểm SMI cho ông Thành nghỉ việc ngày 26/5/2013 cũng đã là thời gian làm việc chính thức theo Mâu thuẫn 2. Tuy nhiên, không chứng minh được ông Thành và SMI đang thực hiện hợp đồng lao động có nội dung việc làm thử là gì (?) và thời gian thử việc là bao lâu (?) theo thỏa thuận (?) hoặc theo quy định của pháp luật (?) nhưng HGV đã tùy tiện áp đặt Điều 32 của Bộ luật lao động để giải quyết tranh chấp lao động theo ý chí chủ quan của HGV là hành vi vi cố ý thực hiện trái Điều 32 này, các khoản 2 và 3 Điều 158 của Bộ luật này và mâu thuẫn với thực tế hai bên đang thực hiện hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận “SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải trái pháp luật” và bác bỏ “nội dung (chưa hết thời gian thử việc theo qui định) và lý do nêu trong Quyết định số 18” nhưng HGV lại đùn đẩy trách nhiệm này lên Tòa án nhân dân các cấp.

III. NỘI DUNG YÊU CẦU CUNG CẤP

1.      Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc xác nhận những nội dung chưa được thể hiện trong Biên bản hòa giải nhưng có liên quan đến việc giải quyết vụ án là:

1.1  -Trả lời câu hỏi “Vì sao 3 lỗi trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của SMI là lỗi của ông Thành?” của Hòa giải viên. Chính bà Hồ Thị Bảo Châu đã thừa nhận không biết vì sao 3 lỗi trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của SMI là lỗi của ông Thành. Đó là quyết định của ông Tổng Giám đốc, bà Châu chỉ là người thực hiện và không có quyền quyết định”.

1.2  - Trả lời câu hỏi “Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng cho xe Captival đúng không?” của Hòa giải viên. Bà Châu thừa nhận và nói “Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng nhưng là tài xế thì ông Thành phải biết đi đổ dầu. Nếu sai làm việc gì làm đúng việc đó thì thiếu gì tài xế, thuê ông Thành làm gì”.

1.3  - Ông Thành trình bày rằng “Tại thời điểm xảy ra sự việc đổ xăng vào xe Captival máy dầu ngày 6/3/2013 đến thời điểm giải quyết dứt điểm sự việc ngày 8/3/2013, TGĐ đã có kết luận sự việc không sao (đúng với thực tế là sự việc không gây hậu quả nghiêm trọng nào, xe Captival vẫn chạy bình thường), không khiển trách, áp đặt lỗi hay truy cứu trách nhiệm bất cứ ai liên quan. Do đó, không có cơ sở để kết luận lỗi của ông Thành và TGĐ là người chịu trách nhiệm về mọi hậu quả xảy ra sau khi TGĐ kết luận sự việc là không sao.

1.4  - Ông Thành đề nghị Hòa giải viên gọi điện thoại theo số điện trong đơn khiếu nại cho hãng Chevrolet để xác minh thông tin báo giá lốp xe Captival nhưng Hòa giải viên không thực hiện thì đương nhiên “Hòa giải viên đã xác nhận ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival của hãng Chevrolet nên không cần phải xác minh”.

1.5  - Ông Thành tranh luận rằng “Công ty không chứng minh được lý do cho ông Thành nghỉ việc là lý do có căn cứ và hợp pháp thì không thỏa mãn được điều kiện để thực hiện Điều 32 của Bộ luật lao động”. Lạm quyền, Hòa giải viên tùy tiện căn cứ Điều 32 nhưng trích dẫn sai nội dung và áp đặt ý chí chủ quan trái Điều này là hành vi cố ý giải quyết tranh chấp lao động trái khoản 2 và khoản 3 Điều 158 BLLĐ”.

2.      Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc giải thích rõ các mâu thuẫn trong phương án hòa giải bằng việc trả lời cụ thể các câu hỏi sau:

2.1  - Công ty đưa ra lỗi của ông Thành nhưng không chứng minh được lỗi của ông Thành theo Điều 87 của Bộ luật lao động thì tại sao ông Thành lại phải chứng minh là mình không có lỗi? Tại sao Công ty không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành nhưng vẫn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái Điều 32 của Bộ luật Lao động?

2.2  - Việc ông Thành đưa xe Captival đi đổ xăng theo yêu cầu của Công ty và việc ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival từ đại diện của Hãng Cherolet đến Công ty có phải là lỗi của ông Thành không? Căn cứ điều khoản của văn bản pháp luật nào để xác định “Ông Thành thực hiện đúng yêu cầu đổ xăng cho xe Captival của Công ty là lỗi của ông Thành; Ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival từ người bán viết tắt là Cty ô tô GM Việt Nam đến người mua là Công ty là lỗi của ông Thành? Căn cứ nào xác định Công việc lái xe là việc nhận lỗi? Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh ông Thành là nhân viên lái xe, công nhân nhận lỗi, nhân viên nghiệp vụ nhận lỗi hay chức danh nghề nhận lỗi cần trình độ từ trung cấp? Điều khoản của văn bản pháp luật nào quy định “người lao động làm đúng việc làm đã thỏa thuận với người sử dụng lao động là lỗi” để xác định lỗi “Nhưng không biết nhận lỗi” là lỗi của ông Thành?

2.3  - Công ty yêu cầu ông Thành đưa xe Captival đi đổ xăng thì ông Thành yêu cầu người bán nhiên liệu đổ xăng hay dầu là thực hiện đúng yêu cầu của Công ty? Tại thời điểm xảy ra sự việc đổ xăng vào xe Captival máy dầu ngày 6/3/2013 đến thời điểm giải quyết dứt điểm sự việc ngày 8/3/2013, Tổng giám đốc Công ty đã có kết luận sự việc không sao (đúng với thực tế là sự việc không gây hậu quả nghiêm trọng nào, xe Captival vẫn chạy bình thường), không khiển trách, áp đặt lỗi hay truy cứu trách nhiệm bất cứ ai liên quan thì ai là người phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả xảy ra sau khi TGĐ kết luận sự việc là không sao? Tại sao?

2.4  - Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc không gọi điện thoại cho hãng Chevrolet để xác minh thông tin báo giá lốp xe Captival theo yêu cầu của ông Thành thì tình tiết, chứng cứ này có phải là “đương nhiên Hòa giải viên đã xác nhận ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá và lỗi “Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua (Ông Thành báo giá: 5.900.000 đồng, Ông Chủ mua giá; 3.520.000 đồng)” không phải là lỗi của ông Thành không”?

2.5  - Tại sao HGV áp đặt lý do trái Điều 32 Bộ luật lao động mâu thuẫn với lý do trái Điều 87 của Bộ luật này mà SMI áp đặt trong Quyết định số 18/QĐ/2013? Công ty, Phòng lao động quận có phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe không? Tại sao?

2.6  - Việc làm thử mà SMI và ông Thành đã thỏa thuận là gì? Việc làm thử không đạt yêu cầu nào mà hai bên đã thỏa thuận? Ông Thành không đạt yêu cầu công việc lái xe Everest và Captival của Công ty trong những trường hợp nào? Tại sao?

2.7  - Khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT quy định hình thức đào tạo lái xe là gì?  Nội dung nào của tài liệu đào tạo lái xe B2 mà ông Thành đã được học thể hiện ông Thành đã được học chuyên môn, kỹ thuật hay nghiệp vụ đổ xăng? Ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề hay giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo lái xe hạng B2? Ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe thì là lao động sơ cấp, nhân viên nghiệp vụ, công nhân kỹ thuật hay công việc có chức danh nghề cần trình độ từ trung cấp? Căn cứ điều khoản của văn bản pháp luật nào để xác định công việc lái xe của ông Thành tại Công ty là công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ, công việc có chức danh nghề cần trình độ từ trung cấp hay lao động khác? Lao động sơ cấp là công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ, công việc có chức danh nghề cần trình độ từ trung cấp hay lao động khác?

2.8  - Hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng là hợp đồng lao động không xác định thời hạn hay hợp đồng thử việc có thời hạn không quá 30 ngày? Tài liệu, chứng cứ nào thể hiện thời hạn, thời điểm mà hai bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của hợp đồng? Tại sao?

2.9  - Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hợp đồng lao động giữa ông Thành và Công ty là loại hợp đồng không xác định thời hạn hay hợp đồng thử việc theo thỏa thuận? Quyết định này có thể hiện thời hạn, thời điểm chấm dứt hợp đồng không? Tại sao?

2.10 - Giả sử có thời gian thử việc thì thời gian thử việc áp dụng đối với lao động sơ cấp là nhân viên lái xe không được quá bao nhiêu ngày quy định tại Khoản 3 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP? Công việc lái xe có bắt buộc phải thực hiện thử việc không? Nếu có thì căn cứ điều khoản của văn bản pháp luật nào, việc làm thử là gì và thời gian thử việc là bao lâu? Hai bên không thỏa thuận thời gian thử việc thì thời gian thử việc theo thỏa thuận là bao nhiêu ngày? Từ ngày 01/03/2013 đến ngày 26/03/2013 là bao nhiêu ngày và Công ty có vi phạm thời gian thử việc không? Ông Thành làm việc chính thức của từ ngày nào?

2.11 - Nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” của Quyết định số 18/QĐ/2013 là “chưa hết thời gian thử việc theo thỏa thuận” hay “chưa hết thời gian thử việc theo quy định”? Pháp luật lao động có quy định “Người lao động và người sử dụng lao động phải thực hiện việc làm thử hay thời gian thử việc khi hai bên giao kết hợp đồng lao động” không? Nếu có thì quy định tại điều, khoản của văn bản pháp luật nào? Nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” có phải là nội dung bị vô hiệu không? Các nội dung về thử việc phát sinh theo nội dung này có bị vô hiệu không? Tại sao?

2.12 - Bà Hồ Thị Bảo Châu có biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành không? Bà Hồ Thị Bảo Châu đã thừa nhận với Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc là “không biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành” thì lý do cho ông Thành nghỉ việc nêu trong Quyết định này có phải là lý do vô căn cứ và trái pháp luật không? Ai là người chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành? Tại sao?

2.13 - Công ty có phải chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành và lý do cho ông Thành nghỉ việc nêu trong Quyết định này là lý do có căn cứ và hợp pháp không? Công ty không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành thì lý do ông Thành đã gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định này có phải là lý do có căn cứ và hợp pháp và ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi không? Tại sao?

2.14 - Sử dụng lý do vô căn cứ và trái pháp luật để tùy tiện sa thải người lao động thì là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật không? Công ty đã thực hiện trái quy định tại những điều, khoản của các văn bản pháp luật nào? Tại sao?

2.15 - Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông Thành thì SMI có phải bồi thường theo yêu cầu hòa giải của ông Thành không? Công ty tùy tiện áp đặt trái pháp luật lỗi cho ông Thành thì Công ty có phải xin lỗi ông Thành theo yêu cầu hòa giải của ông Thành không? Tại sao?

2.16 - Thực tiễn chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe. Khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh nghề lái xe là lao động sơ cấp đương nhiên bác bỏ nghề lái xe thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Điều 32 Bộ luật lao động không phải là căn cứ để đơn phương chấm hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Không chứng minh được lỗi của ông Thành thì lý do vô căn cứ và trái Điều 87 Bộ luật lao động đương nhiên bị bác bỏ. Vậy, tại sao Hòa giải viên không bác bỏ nội dung bị vô hiệu, lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Quyết định số 18/QĐ/2013 của Công ty?

2.17 - Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc có phải là người làm chứng và người có nghĩa vụ liên quan phải xác nhận những nội dung chưa được thể hiện trong biên bản hòa giải ngày 24/04/2013 và giải thích về những mâu thuẫn trong phương án hòa giải do ông Thành yêu cầu?

2.18 - Ông Nguyễn Văn Ngọc có phải là Hòa giải viên theo quy định của pháp luật tại thời điểm hòa giải ngày 24/04/2013 không? Nội dung hòa giải trái pháp luật có bị vô hiệu không? Tại sao?

Chân thành cám ơn và trân trọng kính chào!

M456

CÔNG TY TNHH MTV THƯƠNG HIỆU VẬN TẢI BA THÀNH
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.6899.6850 & 08.6899.6846 - Hotline: 0912 82 2628
Email: info@thuonghieudoanhnghiep.vn