HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
Thương Hiệu Doanh Nghiệp là cái tên dễ nhớ, gần gũi và Thương Hiệu là mục tiêu chung của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi hội tụ Thành công - Thịnh vượng - Phồn vinh của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi tôn vinh và khẳng định đẳng cấp thương hiệu của doanh nghiệp thương hiệu.

HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG

Về việc: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành

Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (Viết tắt là Công ty Quốc tế hoặc SMI)

Cơ quan hòa giải lao động: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Tòa án sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Tòa án phúc thẩm: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn; Tranh chấp về hành chính giữa Nguyên đơn và Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Chứng minh và chứng cứ: HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng được lỗi của ông Thành thì chỉ cần Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI cũng đủ chứng cứ chứng minh SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt nội dung án oan sai: Ông Thành vẫn  hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm chứng minh Tòa án hai cấp đã không căn cứ chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành mà chỉ căn cứ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty Quốc tế để giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

- Hồ sơ vụ án lao động sơ thẩm số 56/2013/TLLĐ-ST ngày 30/5/2013 và vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có tài liệu không hợp pháp nhưng được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án; có tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp nhưng bị cố ý bỏ qua theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng; không có tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành vì Tòa án hai cấp không thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ và Tòa án phúc thẩm không lập biên nhận tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành.

- Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 là các bản án được xét xử trái pháp luật và theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.


Án oan sai: Ai làm gì được ta?

Tòa án lạm quyền tùy tiện thay đổi thẩm phán phụ nhưng không tuân thủ pháp luật thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự là không công bằng.

Cản trở việc khởi kiện bằng yêu cầu Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng miệng. Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là chứng cứ chứng minh hợp đồng miệng được Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án ngay từ khi nộp đơn khởi kiện nhưng Tòa án lại trả lời khiếu nại rằng Nguyên đơn không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu... chỉ là hai trong số nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền.

Lạm quyền tiếp tay cho lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động của Công ty Quốc tế nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan hòa giải lao động lẩn trốn yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những cán bộ có sai phạm và khai trừ đảng đối với những đảng viên có sai phạm.

Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? Ai? Không ai? Vậy thì ta cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật nghiêm trọng, thản nhiên ra quyết định trái pháp luật rất nghiêm trọng và ngang nhiên ban hành bản án trái pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án oan sai này là minh chứng cho tuyên bố bất chấp pháp luật của ta.

  
Lý do không được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp


Căn cứ Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS thì
ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi và
Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18 là chứng cứ chứng minh SMI đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.


“Xe Captival 52LD-4812 máy dầu bị đổ nhầm xăng vẫn chạy bình thường”


Chữ ký trong Quyết định số 18 và Giấy ủy quyền khác nhau


Lốp cũ xe CAPTIVAL của Nhật (MADE IN JAPAN)


Lốp mới xe CAPTIVAL của Thái Lan (THAILAND)


Nhân chứng xác nhận báo giá của mình

(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật

THÔNG TIN MỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUẢNG CÁO - LIÊN KẾT
Võ Thuật


QUẢNG CÁO

0912 82 2628

Đơn Khiếu nại - Tố cáo ngày 29/10/2104  được sửa đổi là ĐƠN KHIẾU NẠI

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trả lại Đơn Khiếu nại - Tố cáo ngày 29/10/2014 (Sửa đổi là Đơn khiếu nại) kèm theo Phiếu thông báo và chỉ dẫn số 412/VKS-P7 ngày 30/10/2014 (Viết tắt là Văn bản số 412) và nhận lại Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 kèm theo Đơn khiếu nại ngày 14/11/2014 khiếu nại Văn bản số 412 theo Giấy biên nhận số 01/14/GBN-VKS-KT ngày 14/11/2014; lập Biên biên bản làm việc ngày 05/12/2014 về việc giải quyết Đơn khiếu nại ngày 14/11/2014; nhận Đơn nhắc nhở ngày 05/08/2015 theo yêu cầu của Kiểm sát viên Huỳnh Ngọc Phương.

Sự hài lòng của người dân là thước đo hiệu quả công việc và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức

Ông Thành rất không hài lòng về việc ngày 18/08/2015 Kiểm sát viên Nguyễn Thị Thúy Phượng và Phan Nhứt Thống trả lời là không biết Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 đang ở đâu, ai xử lý đơn, trước đó Kiểm sát viên Huỳnh Ngọc Phương cũng trả lời như vậy mặc dù chính ông Phương đã trả lời là sẽ chuyển Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 cho Phòng Nghiệp vụ xử lý. Nghiêm trọng hơn, Kiểm sát viên Nguyễn Thị Thúy Phượng không biết mình là người bị khiếu nại.

Kính gửi: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

I. NỘI DUNG KHIẾU NẠI – TỐ CÁO

1. Khiến nại Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Xét thấy: Thứ nhất, theo kết luận của Cơ quan hòa giải lao động thì lý do là ông Thành gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp. Thứ hai, trong quá trình tố tụng dân sự sơ thẩm và phúc thẩm, Công ty Quốc tế không bổ sung chứng cứ chứng minh và Tòa án không tuyên bố chứng cứ nào chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành. Thứ ba, Tòa án không yêu cầu Công ty Quốc tế chứng minh lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải là có căn cứ và hợp pháp. Thứ tư, Tòa án chỉ căn cứ vào Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế để áp đặt ông Thành 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành là không đảm bảo xét xử vô tư, chính xác và đúng pháp luật. Thứ năm, Tòa án cố ý phớt lờ và không xem xét các chứng cứ mà ông Thành chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 không phải là lỗi của ông Thành và không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp của Công ty Quốc tế. Thứ sáu, Bản án là chứng cứ chứng minh Tòa án áp đặt rất nhiều nội dung mâu thuẫn và trái pháp luật để xét xử theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng. Thứ bảy, theo nội dung khiếu nại tại Đơn khiếu nại sửa đổi, bổ sung ngày 29/10/2014 của ông Thành gửi Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thì Bản án lao động phúc thẩm là bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án và là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

2. Khiếu nại, tố cáo về các hành vi vi phạm tố tụng dân sự của cơ quan và người tiến hành tố tụng.

Xét thấy: Thứ nhất, Tòa án có hành vi cản trở việc khởi kiện của ông Thành bằng việc yêu cầu ông Thành phải nộp “bản sao” hợp đồng lao động miệng. Thứ hai, Tòa án vi phạm thời hạn thụ lý và xét xử khởi kiện và kháng cáo. Thứ ba, Tòa án lạm quyền và bất chấp pháp luật không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành. Thứ tư, Tòa án không tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật. Thứ năm, Tòa án áp đặt ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng và cố ý làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án lao động thụ lý số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013. Thứ sáu, Tòa án vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa và sau khi kết thúc xét xử. Thứ bảy, Tòa án không thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành. Thứ tám, Tòa án sửa nội dung bản án sau khi tuyên án. Thứ chín, Tòa án lạm quyền không cho ông Thành ghi ý kiến và ký vào biên bản phiên tòa. Thứ mười, bất chấp pháp luật, Tòa án xét xử theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng mà không xem xét đầy đủ tài liệu, chứng cứ, chứng minh và tình tiết khách quan của vụ án.

3. Tố cáo về các quyết định và hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan và người có thẩm quyền.

Xét thấy: Thứ nhất, Cơ quan hòa giải lao động vi phạm thời hạn giải quyết hòa giải và giải quyết khiếu nại không đúng quy định của pháp luật làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành. Thứ hai, Chủ tịch UBND quận Bình Thạnh không giải quyết Đơn khiếu nại ngày 21/5/2014 của ông Thành. Thứ ba, ông Nguyễn Đình Phi là Cán bộ tiếp công dân của UBND quận Bình Thạnh không tiếp nhận đơn khiếu nại của ông Thành theo quy định của pháp luật. Thứ tư, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh không giải quyết Đơn khiếu nại ngày 10/4/2014 của ông Thành. Thứ năm, Quyết định giải quyết khiếu nại số 474 ngày 25/8/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là quyết định giải quyết khiếu nại trái pháp luật. Thứ sáu, nội dung khiếu nại theo các đơn khiếu nại ông Thành gửi đến các cơ quan có thẩm quyền nhưng quá thời hạn giải quyết khiếu nại theo luật định vẫn chưa được giải quyết hoặc giải quyết không đúng quy định của pháp luật.

4. Khiếu nại về hành vi vi phạm tố tụng dân sự của Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én theo nội dung khiếu nại tại điểm c, i, m Nội dung 1, điểm f, m, n, o, q Nội dung 3, điểm f Nội dung 4, Yêu cầu 20 Đơn khiếu nại sửa đổi, bổ sung ngày 29/10/2014 của ông Thành gửi Chánh án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

KẾT LUẬN

Bản án lao động sơ thẩm và phúc thẩm trong hồ sơ vụ án lao động số 91/2013/LĐPT là các bản án (1) có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án, (2) có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, (3) có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật và (4) có kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. Việc tiến hành tố tụng của Tòa án và Viện kiểm sát không đảm bảo xét xử vô tư, công bằng, chính xác và đúng pháp luật. Việc giải quyết khiếu nại của các cơ quan có thẩm quyền có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không được thực hiện theo quy định của pháp luật, không bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời, làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành.

II. YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI – TỐ CÁO

1.        Căn cứ khoản 2 Điều 17 và các điều 44, 282, 283, 284 Bộ luật tố tụng dân sự, Viện trưởng hoặc Viện kiểm sát thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều 285 của Bộ luật này để xét lại Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm.

2.        Áp dụng hình thức xử lý kỷ luật cách chức Kiểm sát viên đối với bà Nguyễn Thị Én (Chi tiết, xem Yêu cầu 3 của Đơn khiếu nại).

3.        Kiểm tra và giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, cá nhân bị khiếu nại trên trong việc giải quyết khiếu nại của ông Thành.

4.        Viện trưởng giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp luật.


PHIẾU THÔNG BÁO VÀ CHỈ DẪN
Số 412/VKS-P7
Ngày 30 tháng 10 năm 2014

Phiếu thông báo và chỉ dẫn số 412 ngày 30/10/2014 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh


ĐƠN KHIẾU NẠI
Ngày 14 tháng 11 năm 2014
Khiếu nại Văn bản số 412/VKS-P7

I. NGƯỜI BỊ KHIẾU NẠI

1.        Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

2.        Bà Nguyễn Thị Thúy Phượng – Kiểm sát viên VKSND thành phố Hồ Chí Minh.

II. NỘI DUNG KHIẾU NẠI

CĂN CỨ

- Căn cứ Luật khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11 tháng 11 năm 2011;

- Căn cứ Luật tố cáo số số 03/2011/QH13 ngày 11 tháng 11 năm 2011;

- Căn cứ Bộ Luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004;

- Căn cứ Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân số 34/2002/QH10 ngày 2 tháng 4 năm 2002;

- Căn cứ Đơn khiếu nại – tố cáo ngày 29/10/2014 của ông Thành;

- Căn cứ Phiếu thông báo và chỉ dẫn số 412/VKS-P7 ngày 30/10/2014 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

1.      Tố cáo là việc ông Thành báo cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh biết về hành vi vi phạm pháp luật bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của ông Thành.

2.      Khiếu nại là việc ông Thành đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của ông Thành.

3.      Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.

4.      Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

5.      Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng. Bản án là văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng.

6.      Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

7.      Ông Thành có quyền khiếu nại, tố cáo những việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự; khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án.

8.      Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên và phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo cho ông Thành biết.

9.      Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại.

10.  Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo.

11.  Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.

Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ.

12.  Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân địa phương kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa phương mình. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, kịp thời. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ kiểm sát các bản án và quyết định của Toà án nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiến nghị với Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục những vi phạm pháp luật trong việc giải quyết các vụ án. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra quyết định, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản đó.

13.  Kiểm sát viên phải tôn trọng và chịu sự giám sát của nhân dân. Trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân ban hành văn bản trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất và mức độ sai phạm mà người ra văn bản bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

XÉT THẤY

1.      Khi thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên, kiểm sát các bản án và quyết định của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mà phát hiện có vi phạm pháp luật thì Viện trưởng hoặc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có quyền trong phạm vi quản lý và giám sát công tác giải quyết khiếu nại như sau:

a)      Xem xét lại bản án và kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

b)      Giám sát công tác giải quyết khiếu nại và yêu cầu Chủ tịch UBND quận Bình Thạnh, Chánh án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết khiếu nại theo đúng pháp luật.

c)      Kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên và ra quyết định áp dụng hình thức xử lý kỷ luật đối với Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én.

2.      Khi tiến hành tố tụng dân sự và xét xử vụ án lao động số 91/2013/LĐ-PT ngày 9/12/2013, đại diện của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én đã không kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 4 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; không kiểm sát các bản án và quyết định của Toà án theo quy định tại khoản 3 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 6 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; không kiểm sát việc giải quyết các vụ án lao động và những việc khác (khiếu nại, thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thay đổi người tiến hành tố tụng, thụ lý vụ án, xét xử tại phiên tòa…) theo quy định tại khoản 4 Điều 3, Điều 6, Điều 11, khoản 7 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; không thực hiện nhiệm vụ theo, công vụ theo quy định tại khoản 9 Điều 2 Luật khiếu nại.

Vì lẽ trên, ông Thành khiếu nại hành vi vi phạm tố tụng dân sự của Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én là có cơ sở và đúng quy định của Luật khiếu nại. Hành vi vi phạm tố tụng dân sự của Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én là hành vi hành chính theo quy định tại khoản 9 Điều 2 Luật khiếu nại và thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 7, khoản 1 Điều 20 Luật khiếu nại.

3.      Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có kiến nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én. Bản án phúc thẩm được ban hành theo quyết định của những người tiến hành tố tụng gồm có Hội đồng xét xử phúc thẩm và Kiểm sát viên. Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của Kiểm sát viên. Do đó, Bản án phúc thẩm là văn bản bị khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 1, Điều 2, khoản 1 Điều 7, khoản 1 Điều 20 Luật khiếu nại, khoản 4 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cho rằng Bản án phúc thẩm trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình là không có cơ sở và xâm phạm quyền khiếu nại của ông Thành theo quy định tại Điều 24 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm s khoản 2 Điều 58 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm i khoản 1 Điều 12 Luật khiếu nại.

4.      Ông Thành có quyền khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án theo quy định tại điểm s khoản 2 Điều 58 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự; khiếu nại, tố cáo những việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự theo quy định tại Điều 24 Bộ luật tố tụng dân sự. Ông Thành làm đơn khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định tại Điều 8 Luật khiếu nại và Điều 19 Luật tố cáo. Nội dung khiếu nại, tố cáo không thuộc một trong các trường hợp không được thụ lý giải quyết theo quy định tại Điều 11 Luật khiếu nại, khoản 2 Điều 20 Luật tố cáo.

Vì lẽ trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu ông Thành viết lại đơn khiếu nại, tố cáo là hành vi cản trở, gây phiền hà cho ông Thành thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. Hành vi cản trở, gây phiền hà của Viện kiểm sát là hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật khiếu nại và khoản 1 Điều 8 Luật tố cáo.

5.      Bản án phúc thẩm thể hiện cơ quan tiến hành tố tụng dân sự theo thủ tục phúc thẩm vụ án lao động số 91/2013/LĐ-PT ngày 9/12/2013 là Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Đơn khiếu nại, tố cáo ngày 29/10/2013 thể hiện nội dung ông Thành khiếu nại, tố cáo theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật khiếu nại, khoản 1 và 2 Điều 12, khoản 1 Điều 14, khoản 1 và 2 Điều 31 Luật tố cáo. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo lần đầu theo quy định tại Mục 2 Chương 3 Luật khiếu nại và Luật tố cáo, Chương 4 Luật tố cáo, Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, điểm e khoản 1 Điều 44 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì lẽ trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hướng dẫn ông Thành làm lại đơn và trả lại đơn khiếu nại, tố cáo là không có cơ sở.

6.      Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra văn bản số 412/VKS-P7 ngày 30/10/2014 có nội dung áp đặt theo ý chí chủ quan của Kiểm sát viên Nguyễn Thị Thúy Phượng và trái pháp luật. Thứ nhất, Viện kiểm sát thông báo ngày 30/10/2014 là ngày Viện kiểm sát nhận được đơn là sai sự thật và mâu thuẫn với Giấy biên nhận số 2/GBN-VKS-KT ngày 29/10/2014 của Viện kiểm sát. Thứ hai, nội dung văn bản không có căn cứ pháp luật cụ thể, không rõ ràng và mâu thuẫn.

Vì lẽ trên, Phiếu thông báo và chỉ dẫn số 412/VKS-P7 ngày 30/10/2014 là văn bản trái pháp luật và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản này, người ra văn bản phải bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 6 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

KẾT LUẬN

Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 trong hồ sơ vụ án lao động số 91/2013/LĐPT là bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan tiến hành tố tụng nên phải chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm pháp luật của Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én và thông báo bằng văn bản cho Chánh án Tòa án và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là những người có quyền kháng nghị để xét lại Bản án theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc khiếu nại, tố cáo của ông Thành thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu ông Thành viết lại đơn khiếu nại, tố cáo là không có cơ sở, là lạm quyền tùy tiện áp đặt theo ý chí chủ quan của Kiểm sát viên Nguyễn Thị Thúy Phượng, là hành vi cản trở việc khiếu nại, tố cáo.

III. YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

1.        Căn cứ khoản 2 Điều 17 và các điều 44, 282, 283, 284 Bộ luật tố tụng dân sự, Viện trưởng hoặc Viện kiểm sát thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều 285 của Bộ luật này để xét lại Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm.

2.        Giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo ngày 29/10/2014 của ông Thành theo đúng pháp luật.

3.        Kiểm tra và giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, cá nhân bị khiếu nại trên trong việc tiếp nhận và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo ngày 29/10/2014 của ông Thành. Áp dụng hình thức xử lý kỷ luật cách chức Kiểm sát viên đối với bà Nguyễn Thị Thúy Phượng.

4.        Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh căn cứ vào điều khoản của văn bản pháp luật cụ thể nào để:

a)      Yêu cầu ông Thành viết lại đơn khiếu nại, tố cáo là đơn đề nghị và đơn tố cáo?

b)      Cho rằng việc ông Thành khiếu nại Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án là việc khiếu nại, phản án không thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh?

5.        Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cung cấp cho ông Thành:

a)      Quyết định phân công Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én tham gia tiến hành tố tụng vụ án lao động số 91/2013/LĐPT.

b)      Tài liệu, chứng cứ chứng minh Kiểm sát viên Nguyễn Thị Thúy Phượng thừa lệnh Viện trưởng ra Phiếu thông báo và chỉ dẫn số 412/VKS-P7 ngày 30/10/2014.

6.        Những việc nào sau đây không thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ chí Minh? Tại sao?

a)      Phát hiện Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án và kiến nghị với Chánh án Tòa án và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để xét lại Bản án theo thủ tục phúc thẩm.

b)      Kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên và ra quyết định áp dụng hình thức xử lý kỷ luật đối với Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én.

c)      Kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh và Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

d)     Giải quyết khiếu nại, tố cáo những việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự của vụ án lao động số 91/2013/LĐPT.

e)      Chi trả tiền vé máy bay cho ông Thành thực hiện việc nộp đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm tại Hà Nội.

7.        Tại sao Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hướng dẫn ông Thành làm đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm gửi Chánh án Tòa án và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại Hà Nội trong khi Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân tối cao có cơ quan đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh? Tại sao đơn phải có xác nhận của UBND phường nơi cứ trú hoặc giấy tờ tùy thân (giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu)?

8.        Kiểm sát viên có phải tôn trọng và chịu sự giám sát của ông Thành không?

9.        Trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành văn bản trái pháp luật thì người ra văn bản có bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự không?

10.    Tại sao Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh nhận đơn khiếu nại, tố cáo của ông Thành ngày 29/10/2014 nhưng lại thông báo là nhận ngày 30/10/2014?

11.    Viện trưởng giải quyết đầy đủ, chính xác, kịp thời các yêu cầu giải quyết khiếu nại trên theo đúng quy định của pháp luật.

Chúc Viện trưởng sức khỏe, trí tuệ, bản lĩnh, chí công vô tư, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.


GIẤY MỜI
Số: 03/GM-P7 ngày 27 tháng 11 năm 2014
Để: Giải quyết những nội dung nêu trong Đơn khiếu nại ngày 14/11/2014


BIÊN BẢN LÀM VIỆC
Ngày 05/12/2014

Biên bản làm việc ngày 05/12/2014 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Biên bản làm việc ngày 05/12/2014 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (trang 2)


GIẤY BIÊN NHẬN ĐƠN
Số: 2/GBN-VKS-KT ngày 29/10/2014
Số: 01/14/GBN-VKS-KT ngày 14/11/2014

MH96

CÔNG TY TNHH MTV THƯƠNG HIỆU VẬN TẢI BA THÀNH
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.6899.6850 & 08.6899.6846 - Hotline: 0912 82 2628
Email: info@thuonghieudoanhnghiep.vn