HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
Thương Hiệu Doanh Nghiệp là cái tên dễ nhớ, gần gũi và Thương Hiệu là mục tiêu chung của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi hội tụ Thành công - Thịnh vượng - Phồn vinh của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi tôn vinh và khẳng định đẳng cấp thương hiệu của doanh nghiệp thương hiệu.

HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG

Về việc: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành

Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (Viết tắt là Công ty Quốc tế hoặc SMI)

Cơ quan hòa giải lao động: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Tòa án sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Tòa án phúc thẩm: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn; Tranh chấp về hành chính giữa Nguyên đơn và Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Chứng minh và chứng cứ: HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng được lỗi của ông Thành thì chỉ cần Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI cũng đủ chứng cứ chứng minh SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt nội dung án oan sai: Ông Thành vẫn  hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm chứng minh Tòa án hai cấp đã không căn cứ chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành mà chỉ căn cứ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty Quốc tế để giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

- Hồ sơ vụ án lao động sơ thẩm số 56/2013/TLLĐ-ST ngày 30/5/2013 và vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có tài liệu không hợp pháp nhưng được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án; có tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp nhưng bị cố ý bỏ qua theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng; không có tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành vì Tòa án hai cấp không thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ và Tòa án phúc thẩm không lập biên nhận tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành.

- Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 là các bản án được xét xử trái pháp luật và theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.


Án oan sai: Ai làm gì được ta?

Tòa án lạm quyền tùy tiện thay đổi thẩm phán phụ nhưng không tuân thủ pháp luật thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự là không công bằng.

Cản trở việc khởi kiện bằng yêu cầu Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng miệng. Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là chứng cứ chứng minh hợp đồng miệng được Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án ngay từ khi nộp đơn khởi kiện nhưng Tòa án lại trả lời khiếu nại rằng Nguyên đơn không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu... chỉ là hai trong số nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền.

Lạm quyền tiếp tay cho lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động của Công ty Quốc tế nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan hòa giải lao động lẩn trốn yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những cán bộ có sai phạm và khai trừ đảng đối với những đảng viên có sai phạm.

Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? Ai? Không ai? Vậy thì ta cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật nghiêm trọng, thản nhiên ra quyết định trái pháp luật rất nghiêm trọng và ngang nhiên ban hành bản án trái pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án oan sai này là minh chứng cho tuyên bố bất chấp pháp luật của ta.

  
Lý do không được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp


Căn cứ Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS thì
ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi và
Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18 là chứng cứ chứng minh SMI đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.


“Xe Captival 52LD-4812 máy dầu bị đổ nhầm xăng vẫn chạy bình thường”


Chữ ký trong Quyết định số 18 và Giấy ủy quyền khác nhau


Lốp cũ xe CAPTIVAL của Nhật (MADE IN JAPAN)


Lốp mới xe CAPTIVAL của Thái Lan (THAILAND)


Nhân chứng xác nhận báo giá của mình

(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật

THÔNG TIN MỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUẢNG CÁO - LIÊN KẾT
Võ Thuật


QUẢNG CÁO

0912 82 2628

ĐƠN KHỞI KIỆN

Về việc: “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật”.

TRANH LUẬN, CHỨNG MINH VÀ CHỨNG CỨ: LUẬN CỨ
Sửa đổi, bổ sung, hợp nhất
Phần
Lý do cho nghỉ việc vô căn cứ và trái pháp luật; Cho nghỉ việc theo hình thức sa thải trái pháp luật

I. 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI không phải là lỗi của ông Thành

Bà Hồ Thị Bảo Châu là người đầu tiên thông báo SMI đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông Thành với lý do là lỗi của Công ty Quốc tế là kinh doanh thua lỗ. Ông Thành không đồng ý bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với lý do không chính đáng mà bà Châu đưa ra. TGĐ chỉ đạo bà Châu soạn thảo Quyết định số 18 để chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải ông Thành trái pháp luật với lý do là ông Thành gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định này.

1. Lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” không phải là lỗi

 Khi vào làm việc, ông Thành không được Công ty Quốc tế bàn giao xe (tình trạng, nhiên liệu, giấy tờ xe) hay hướng dẫn sử dụng các thiết bị của xe. Bằng kinh nghiệm của mình, ông Thành phải tự mò mẫm để vận hành xe. Ngày 6/3/2013, SMI (ông Frederic - GĐ xưởng sản xuất, kế toán Trang, phiên dịch Linh và vài kế toán khác chứng kiến) yêu cầu ông Thành đi đổ xăng thì ông Thành đi đổ xăng, do đây là lần đầu tiên ông Thành lái dòng xe Captival nên khi ông Thành còn đang loay hoay tìm nút mở nắp bình nhiên liệu thì người bán xăng mở nắp bình nhiên liệu và cắm vòi xăng vào đổ (Lưu ý, đây là tình tiết công khai, rõ ràng mà mọi người đều biết và không phải chứng minh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự. Chi tiết xem Luận cứ 6.15 của Tranh luận phúc thẩm). Sau khi đổ xăng, xe vẫn chạy bình thường. Tại thời điểm xảy ra sự việc ngày 6/3/2013 đến thời điểm giải quyết dứt điểm sự việc ngày 8/3/2013, TGĐ đã có kết luận sự việc không gây hậu quả nghiêm trọng nào, không khiển trách, áp đặt lỗi hay truy cứu trách nhiệm bất cứ ai liên quan. Do đó, không có cơ sở để kết luận lỗi của ông Thành và TGĐ là người chịu trách nhiệm về mọi hậu quả xảy ra sau khi TGĐ kết luận sự việc là không sao.

Việc truyền đạt đúng yêu cầu đổ xăng từ người mua sang người bán không phải là lỗi.

Chia yêu cầu đổ xăng thành các phần việc như sau:

  1. Thứ nhất, yêu cầu công việc là yêu cầu đổ xăng cho xe Captiaval được xuất phát từ ông Frederic (Giám đốc xường).
  2. Thứ hai, truyền đạt yêu cầu công việc từ ông Frederic sang người (ông Thành và bà Trang) nhận yêu cầu này là ông Linh (Thông dịch viên).
  3. Thứ ba, xuất tiền và nhận lại hóa đơn mua xăng là bà Trang (Kế toán). Thông tin trên hóa đơn là mua xăng A95, hóa đơn đã được kiểm tra ngay khi ông Thành giao và bà Trang nhận hóa đơn.
  4. Thứ tư, truyền đạt yêu cầu đổ xăng từ người mua (SMI) sang người bán (DN Lê Thành) là ông Thành.
  5. Thứ năm, thực hiện mở nắp bình dầu và đổ xăng là người của DN Lê Thành.

Căn cứ vào các phần việc trên, ông Thành chỉ là người truyền đạt yêu cầu từ người mua sang người bán và đã thực hiện đúng phần việc (yêu cầu công việc) được SMI yêu cầu.

Việc đổ xăng cho xe Captival được thực hiện theo yêu cầu của SMI và ông Thành đã thực hiện đúng yêu cầu của SMI là đi đổ xăng cho xe Captival. Pháp luật không quy định “Người có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ theo yêu cầu của người có quyền yêu cầu là lỗi” nên lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” không phải là lỗi.

Tòa án sơ thẩm tiến hành tố tụng không vô tư vì không yêu cầu SMI cung cấp các chứng cứ chứng minh lỗi của ông Thành và không chỉ ra tài liệu nào là chứng cứ chứng minh và nội dung nào chứng minh: Thứ nhất, đã bàn giao xe cho ông Thành là xe chạy dầu. Thứ hai, việc đổ xăng là lỗi cố ý do ông Thành gây ra. Thứ ba, đã áp dụng hình thức xử lý trách nhiệm của ông Thành đối với lỗi cố ý đổ xăng này. Thứ tư, việc đổ xăng được lặp đi lặp lại ít nhất hai lần. Thứ năm, xe chạy dầu không chạy được xăng. Thứ sáu, ông Goege Wache - TGĐ, ông Frederic - GĐ Xưởng sản xuất, bà Trang - Kế toán xưởng, ông Linh - Phiên dịch, bà Châu - Trợ lý TGĐ, người bán xăng là những người được miễn trách nhiệm theo pháp luật trong sự việc đổ xăng vào xe Captival.

SMI áp đặt lỗi cho ông Thành nhưng không chứng minh được lỗi của ông Thành. Ngược lại, ông Thành đã chứng minh là mình không có lỗi: Thứ nhất, SMI không bàn giao xe cho ông Thành nên chắc chắn không có Biên bản bàn giao xe. Trách nhiệm dân sự của việc đổ nhầm xăng do hậu quả của việc (1) không bàn giao xe và (2) ông Thành thực hiện đúng yêu cầu đổ xăng của SMI vẫn là của SMI. Thứ hai, SMI yêu cầu ông Thành đi đổ xăng cho xe Captival là sự thật. Thứ ba, SMI không hề có cuộc họp giữa những người liên quan đến việc đổ xăng để làm rõ nguyên nhân dẫn tới việc đổ xăng vào xe Captival nên không thể có Biên bản sự việc làm căn cứ quyết định xử lý trách nhiệm với bất cứ người nào. Tại thời điểm xảy ra sự việc, TGĐ đã xử lý dứt điểm vụ việc và cũng không có quyết định xử lý trách nhiệm với bất cứ ai trong số những người liên quan. Thứ tư, việc đổ nhầm xăng chỉ xảy ra một lần duy nhất nên không thể có chứng cứ nào chứng minh sự việc này được lặp đi lặp lại. Thứ năm, xe Capitval vẫn chạy bình thường, hoạt động ổn định sau khi được đổ xăng. Vì vậy, không cần phải chứng minh xe chạy dầu thì không chạy được xăng. Thứ sáu, ông Thành không phải chịu trách nhiệm đối việc đổ xăng vào xe Captival vì pháp luật không quy định “Bên có nghĩa vụ mà thực hiện đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền”.

BIÊN BẢN GIẢ ĐỊNH

SMI: Ông Thành lái xe Captival đi đổ xăng.

Ông Thành: Đổ xăng hay đổ dầu?

SMI: Đổ xăng.

Ông Thành: Đổ xăng phải không?

SMI: Tao yêu cầu mày đổ xăng thì mày đổ xăng hay đổ dầu là làm đúng yêu cầu của tao?

Ông Thành: Tình tiết người bán xăng mở nắp bình dầu và đổ xăng là tình tiết công khai mà mọi người đều biết nên đương nhiên là tình tiết không phải chứng minh. Đề nghị Tòa xem video ghi hình người bán xăng là người mở nắp bình xăng và đổ xăng.

Tòa: Không xem video, không nghe tranh luận. HGV và SMI đã thừa nhận không biết vì sao việc đổ xăng vào xe chạy dầu là lỗi và không chứng minh được lỗi của ông Thành. Không ký cam kết tiến hành tố tụng đúng pháp luật thì Tòa đã đương nhiên thừa nhận hành vi vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Tình tiết trên nắp bình xăng có chữ Diesel chỉ là tình tiết dối trên, lừa dưới, qua mặt đồng nghiệp, bịp bợm đồng chí, tung hỏa mù mị dân, không có giá trị pháp lý. Tòa tuyên án theo lý do vô căn cứ và trái pháp luật tại Quyết định số 18 của SMI thì ... ông Thành không đạt yêu cầu thử việc (?).

Ông Thành: Thưa Tòa. Bản án phúc thẩm là chứng cứ chứng minh ông Thành biết trước Tòa sẽ tuyên án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của Tòa từ Văn bản chơi chữ số 678 ngày 2/4/2014, Văn bản lạm quyền số 1733 ngày 18/7/2014 và Quyết định bút phê số 474 ngày 25/8/2014.

P/S: Đọc lại bản án mà không tìm thấy Tòa trả lời “ông Thành đổ xăng hay đổ dầu là đúng yêu cầu đổ xăng cho xe Captival của SMI (?)”, chỉ thấy phân tích chung chung để đánh lừa người đọc cẩu thả lạc lối vào ma trận thử việc.

2. Lỗi “Nhưng không biết nhận lỗi” không phải là lỗi

Pháp luật không quy định “NLĐ làm đúng công việc đã thỏa thuận với NSDLĐ là lỗi”, ông Thành là tài xế làm công việc lái xe chứ không phải là công việc nhận lỗi nên lỗi “Nhưng không biết nhận lỗi” không phải là lỗi.

3. Lỗi “Báo giá mua lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua” không phải là lỗi

Ông Thành có hai nguồn thông tin giá là một nguồn từ người sửa xe và một nguồn từ hãng Chevrolet (Công ty TNHH Ô tô GM Việt Nam). Ông TGĐ được người sửa xe trực tiếp báo giá từ nguồn của mình là 5 triệu đồng, thông tin giá 5,9 triệu đồng của hãng Chevrolet được ông Thành thông báo lại cho TGĐ. Theo văn bản xác nhận ngày 15/4/2013, đại diện của Chevrolet là Công ty TNHH Ô tô GM Việt Nam đã xác nhận thông tin giá này là đúng, giá lốp ngày 25/3 là 5,9 triệu đồng và giá lốp ngày 26/3 là 6 triệu đồng, chênh lệch giá được hãng giải thích do chênh lệch tỉ giá ngoại tệ tại thời điểm báo giá. Báo giá là quyền của người bán (Người sửa xe hay hãng Chevrolet). Mua hàng là quyền của người mua (SMI). Ông Thành chỉ là người truyền đạt đúng thông tin báo giá từ người bán sang người mua. Bà Vũ Thị Phương và ông Đoàn Văn Túy đã xác nhận trong văn bản ghi ngày 25/4/2013 (ký ngày 18/7/2013) là ông Thành trình bày đúng thông tin sự việc. Đĩa ghi âm, ghi hình ngày 18/7/2013 và văn bản Tường thuật nội dung ghi âm, ghi hình ngày 15/08/2013 là chứng cứ chứng minh ngày 25/4/2013 bà Châu chỉ đạo bà Phương không được ký vào văn bản xác nhận thông tin sự việc theo yêu cầu của ông Thành. Như vậy, ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá của hãng Chevrolet là có căn cứ và hợp pháp, trung thực, khách quan. Việc ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá của người bán cho TGĐ không phải là lỗi, pháp luật không quy định việc truyền đạt đúng thông tin từ người cung cấp thông tin là người bán đến người nhận thông tin là người mua là lỗi nên lỗi “Báo giá mua lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua” không phải là lỗi.

  

  

Kết luận: 3 lỗi không phải là lỗi

Công ty Quốc tế áp đặt 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 nhưng Biên bản hòa giải ngày 24/4/2013 của Cơ quan hòa giải lao động thể hiện SMI không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành theo quy định tại Điều 87 Bộ luật lao động. Tòa án sơ thẩm không chỉ ra được tài liệu nào là chứng cứ chứng minh và nội dung nào chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành. Do đó, ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi nhưng ông Thành vẫn cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định này không phải là lỗi của ông Thành.

II. 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp

Văn bản Chứng minh và Chứng cứ bác bỏ lý do việc làm thử không đạt yêu cầu của Hòa giải viên nêu trong Biên bản hòa giải của Cơ quan hòa giải lao động là Phòng LĐTBXH quận Bình Thạnh. Văn bản Tranh luận sơ thẩm chỉ ra Doanh nghiệp, Tòa án, Cơ quan hòa giải lao động không phải là các cơ quan có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe là người không đạt yêu cầu lái xe hay làm nghề lái xe. Nhưng Tòa án vẫn áp đặt lý do trái pháp luật việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thỏa thuận mâu thuẫn với sự thật là hai bên không có thỏa thuận nào về việc làm thử và thời gian thử việc. Lý do của cả hai cơ quan này không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp và cũng không phải là lý do nêu trong Quyết định số18 của SMI.

Quyết định số 18 của SMI là quyết định sa thải người lao động không thuộc trường hợp nào được quy định tại Điều 85 Bộ luật lao động. Khi khởi kiện, theo quy định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự, ông Thành đã đưa ra chứng cứ để chứng minh (văn bản Chứng minh và Chứng cứ, Tranh luận sơ thẩm thể hiện Luận cứ I ở trên) là chỉ ra SMI không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành theo quy định tại Điều 87 Bộ luật lao động. SMI không thực hiện nghĩa vụ chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành, Biên bản hòa giải của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh cũng thể hiện SMI không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành, bà Châu cũng thừa nhận với Hòa giải viên là không biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành. Thì đương nhiên, 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 không phải là lỗi của ông Thành. Vậy, ông Thành còn phải chứng minh là mình không có lỗi như thế nào đối với những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 80 Bộ luật tố tụng dân sự? Và tại sao ông Thành không có lỗi mà lại phải đi chứng minh là mình không có lỗi? Tòa án không yêu cầu SMI chứng minh lỗi của ông Thành mà lại yêu cầu ông Thành chứng minh ngược là mình không có lỗi, yêu cầu của Tòa án thể hiện sự bất bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự quy định tại Điều 8 Bộ luật tố tụng dân sự và vi phạm nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng quy định tại Điều 16 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án áp dụng pháp luật không đầy đủ, không toàn diện tình tiết của vụ án mà cho rằng “ông Thành cho rằng ông không có nghĩa vụ chứng minh là chưa đúng” thể hiện người tiến hành tố tụng chỉ cưỡi mây xem lướt nhanh hồ sơ chứ không thể hiện ý thức trách nhiệm nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để giải quyết khiếu kiện khách quan, chính xác, kịp thời và đúng pháp luật.
(Trích Đơn khiếu nại ngày 18/7/2014 của ông Thành)

SMI đưa ra lý do để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải trái pháp luật là ông Thành gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của SMI nhưng không có chứng cứ và không chứng minh được lỗi của ông Thành. Ngược lại, ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh (xem Đơn khiếu nại ngày 18/7/2014) nhưng cũng đã cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh là mình không có lỗi.

Vì vậy, 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của SMI không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp, SMI sử dụng lý do không có căn cứ và hợp pháp để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải không đúng quy định của pháp luật trong các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Quy định của Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung
Điều 38

1 - Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
b) Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại Điều 85 của Bộ luật này;
2 - Trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo các điểm a, b và c khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải trao đổi, nhất trí với Ban chấp hành công đoàn cơ sở. Trong trường hợp không nhất trí, hai bên phải báo cáo với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Sau 30 ngày, kể từ ngày báo cho cơ quan lao động biết, người sử dụng lao động mới có quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp không nhất trí với quyết định của người sử dụng lao động, Ban chấp hành công đoàn cơ sở và người lao động có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định.
3- Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
Điều 85
1 - Hình thức xử lý kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp;
b) Người lao động bị xử lý kỷ luật chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa xoá kỷ luật;
c) Người lao động tự ý bỏ việc bảy ngày trong một tháng hoặc 20 ngày trong một năm mà không có lý do chính đáng.
2- Sau khi sa thải người lao động, người sử dụng lao động phải báo cho cơ quan lao động cấp tỉnh biết.
Điều 87
1 - Khi tiến hành việc xử lý vi phạm kỷ luật lao động, người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động.
2 - Người lao động có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bào chữa.
3 - Khi xem xét xử lý kỷ luật lao động phải có mặt đương sự và phải có sự tham gia của đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp.
4 - Việc xem xét xử lý kỷ luật lao động phải được ghi thành biên bản.

MH52

CÔNG TY TNHH MTV THƯƠNG HIỆU VẬN TẢI BA THÀNH
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.6899.6850 & 08.6899.6846 - Hotline: 0912 82 2628
Email: info@thuonghieudoanhnghiep.vn