HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
| ||||||
PHẠM VI KHỞI KIỆN - QUAN HỆ PHÁP LUẬT - QUAN HỆ TRANH CHẤP Theo Điều 163 Bộ luật tố tụng dân sự thì trong vụ án này có hai quan hệ tranh chấp, một quan hệ tranh chấp về lao động giữa ông Thành và Công ty Quốc tế, một quan hệ tranh chấp về hành chính giữa ông Thành và Tòa án. Quan hệ tranh chấp về hành chính có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành trong quan hệ tranh chấp về lao động. Tuy nhiên, bất chấp pháp luật, Tòa án đã không xem xét và giải quyết quan hệ tranh chấp về hành chính theo đúng quy định của pháp luật mà lại vội vàng đưa vụ án ra xét xử theo ý chí chủ quan của những người có thẩm quyền làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành.
Điểm d Yêu cầu 5 của Đơn khiếu nại 1. Quan hệ pháp luật và quan hệ tranh chấp a) Quan hệ lao động và tranh chấp lao động Quan hệ pháp luật giữa ông Thành và SMI là quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động (NSDLĐ) và người lao động (NLĐ). Quan hệ lao động này được xác lập trên cơ sở hợp đồng lao động là sự giao kết giữa hai bên theo hình thức hợp đồng miệng và loại hợp đồng không xác định thời hạn. 3 lỗi trong nêu Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của SMI (viết tắt là QĐ18 của SMI) là tranh chấp lao động giữa hai bên phát sinh theo quan hệ lao động này. - QĐ18 của SMI là chứng cứ chứng minh quan hệ lao động và tranh chấp lao động này. Nội dung của Quyết định này thể hiện 3 lỗi trong nêu Quyết định này là nội dung tranh chấp; Người sử dụng lao động là Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc Tế (viết tắt là SMI hoặc Công ty Quốc tế), Đại diện theo pháp luật là ông Georges Wache - Chức danh là Tổng Giám đốc; Người lao động là ông Nguyễn Đức Thành - Chức danh là nhân viên lái xe. b) Quan hệ tố tụng dân sự, hành chính và tranh chấp hành chính Quan hệ pháp luật giữa ông Thành và Tòa án là quan hệ tố tụng dân sự giữa người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Thông qua hoạt động tố tụng dân sự, ông Thành khởi kiện về việc “Bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải trái pháp luật” nhưng Tòa án lại áp đặt việc khởi kiện và tranh chấp lao động là “Đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc” làm phát sinh tranh chấp hành chính giữa hai bên về việc khởi kiện và giải quyết tranh chấp lao động. - Tòa án áp đặt trái pháp luật hợp đồng thử việc vào quan hệ lao động nhưng không chỉ ra được thời hạn, thời điểm chất dứt hợp đồng thử việc rõ ràng, cụ thể là ngày nào. Tòa án không chỉ ra được các tài liệu nào là chứng cứ chứng minh và nội dung nào chứng minh hợp đồng thử việc là hợp pháp và 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của SMI là lỗi của ông Thành. Quan hệ tranh chấp về hành chính đã làm: thay đổi địa vị tố tụng của Tòa án từ cơ quan, người tiến hành tố tụng thành cá nhân, cơ quan có liên quan và người tham gia tố tụng theo việc kháng cáo; phát sinh thêm quan hệ pháp luật giữa ông Thành và Tòa án là quan hệ tố tụng hành chính giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại theo việc khiếu nại (Đơn khiếu nại ngày 7/7/2014). 2. Phạm vi khởi kiện: Theo quan hệ pháp luật và quan hệ tranh chấp Yêu cầu khởi kiện của Đương sự (Nguyên đơn) là căn cứ theo điều khoản cụ thể của pháp luật lao động. “Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật này và Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện” là quyền của đương sự theo quy định tại Điều 58 và Điều 59 Bộ luật tố tụng dân sự. Bản án sơ thẩm nhận định “các yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Thành thể hiện trong Đơn khởi kiện ngày 04/09/2013 là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện được thể hiện trong đơn khởi kiện” nhưng không chỉ ra các trường hợp vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện được quy định tại điều khoản cụ thể của văn bản pháp luật nào và đơn khởi kiện nào? Trong các đơn khởi kiện, ông Thành đã sửa đổi, bổ sung các nội dung: tên Tòa án theo yêu cầu của Thông báo số 07 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh; nội dung làm thử việc lái xe bị bãi bỏ, bác bỏ và đã được chứng minh là nội dung vô hiệu theo pháp luật (xem luận cứ 6.6 ở dưới); nội dung yêu cầu khởi kiện được thay đổi trong phạm vi khởi kiện ban đầu của quan hệ pháp luật là quan hệ lao động và quan hệ tranh chấp là quan hệ tranh chấp về lao động và theo tình tiết phát sinh khi giải quyết vụ án lao động. Do đó, nhận định của Tòa án chỉ là nhận định theo ý chí chủ quan của người có thẩm quyền và không có cơ sở pháp lý, Tòa án không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện sửa đổi, bổ sung thể hiện trong Đơn khởi kiện ngày 04/09/2013 là hành vi vi phạm pháp luật theo thói quen. Tranh chấp giữa ông Thành và Công ty Quốc tế không chấm dứt bằng thỏa thuận giữa hai bên mà chỉ được chấm dứt bằng bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền. Thời gian dự kiến chấm dứt tranh chấp trong Đơn khởi kiện ngày 04/04/2013, sửa đổi ngày 12/04/2013 và Biên bản không hòa giải được (Bản tự khai) ngày 19/6/2013 là ngày 26/5/2013, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 15/8/2013 là ngày 15/08/2013, Đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày 04/09/2013 là ngày 4/9/2013, Đơn kháng cáo ngày 19/09/2013 là ngày 24/01/2014, Đơn kháng cáo sửa đổi, bổ sung ngày 26/02/2014 là ngày 26/02/2014, ngày 18/07/2014 là ngày 23/07/2014, ngày 03/09/2014 là ngày 12/9/2014. Thời gian ông Thành không được làm việc do phải thực hiện Quyết định số 18 của SMI được tính là thời gian làm việc. Do đó, ông Thành đưa ra yêu cầu bồi thường tiền lương và phụ cấp của những ngày không được làm việc kể từ ngày 26/03/2013 đến ngày có bản án có hiệu lực pháp luật là đúng pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động và điểm d khoản 3 Điều 14 Nghị định 44/2003/NĐ-CP; yêu cầu bồi thường một khoản tiền tương ứng với số ngày không báo trước là đúng pháp luật quy định tại điểm a khoản 3 Điều 38 và khoản 4 Điều 41 Bộ luật lao động; yêu cầu bồi thường tiền lãi tổng số tiền bồi thường là đúng pháp luật quy định tại Điều 59 Bộ luật lao động và khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự. Hội đồng xét xử cho rằng, các yêu cầu bồi thường này là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện trong đơn khởi kiện nhưng không chỉ ra cơ sở pháp lý áp dụng để không chấp nhận, thể hiện Hội đồng xét xử biết chữ mà không biết nghĩa. Nếu biết chữ nghĩa thì là thể hiện luận điệu bịp bợm làm sai lệch thông tin, tạo thông tin giả đánh lừa dư luận. Thứ nhất, ông Thành có quyền đưa ra các yêu cầu khởi kiện trong phạm vi yêu cầu khởi kiện theo pháp luật lao động, dân sự, tố tụng dân sự. Thứ hai, yêu cầu bồi thường là một yêu cầu trong phạm vi yêu cầu khởi kiện của tranh chấp lao động, các yêu cầu bồi thường cụ thể chỉ là một trong những yêu cầu bồi thường như yêu cầu trợ cấp thôi việc (Khi khởi kiện sơ thẩm, ông Thành biết đây là yêu cầu vượt quá phạm vi khởi kiện vì thời gian làm việc chưa đủ 12 tháng. Kể từ ngày 01/3/2014, thời gian làm việc đã đủ 12 tháng nên ông Thành có quyền bổ sung yêu cầu này khi giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm) theo quy định tại khoản 1 Điều 42, khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động và Điều 14 Nghị định 44/2003/NĐ-CP. Thứ ba, Hội đồng xét xử có nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật khi xét xử và phải chịu trách nhiệm với việc bất chấp pháp luật phán quyết bừa bãi theo ý chí chủ quan làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành.
Yêu cầu vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện là: MH51 | ||||||
|