Đơn kháng cáo
Kháng cáo Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh. Về việc: “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật”.
- Thứ nhất, Tòa án sơ thẩm cố ý giải quyết việc khởi kiện trái với việc khởi kiện của Nguyên đơn và mâu thuẫn với Thông báo thụ lý vụ án lao động sơ thẩm số 56/TB-TA ngày 30/05/2013 của chính Tòa án.
- Thứ hai, Quyết định số 18/QĐ/2013 chứng minh SMI và ông Thành không thỏa thuận hợp đồng thử việc. Lý do vô căn cứ và trái pháp luật nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là tranh chấp lao động giữa hai bên. Bất chấp sự thật và khiếu nại của ông Thành, Tòa án sơ thẩm áp đặt tranh chấp lao động là tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc. Bản án sơ thẩm, Văn bản trả lời không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và Quyết định giải quyết khiếu nại của Tòa án sơ thẩm là chứng cứ chứng minh Tòa án sơ thẩm áp đặt hợp đồng thử việc để giải quyết vụ án theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng.
- Thứ ba, Biên bản hòa giải lao động chứng minh SMI không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành. Ngược lại, ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh nhưng cũng đã cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 không phải là lỗi của ông Thành. Bất chấp pháp luật, Tòa án sơ thẩm vẫn tuyên án theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng là 2 trong 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành.
- Thứ tư, SMI áp đặt lý do là ông Thành gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 để đơn phương chấp dứt hợp đồng lao động với ông Thành. Lạm quyền và tùy tiện, Tòa án sơ thẩm áp đặt lý do là ông Thành không đạt yêu cầu (?, việc làm thử mà hai bên đã thỏa thuận?)... nhằm đánh lạc hướng giải quyết vụ án? Không dừng lại ở sự khác biệt hoàn toàn với lý do của SMI. Lý do của Tòa án sơ thẩm còn thể hiện sự mâu thuẫn với thực tiễn chứng minh nghề lái xe là miễn thử việc và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm có hiệu lực; Thông tư 46/2012/TT-BGTVT chứng minh doanh nghiệp, tòa án, cơ quan hòa giải lao động không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe là người không đạt yêu cầu lái xe, Thông tư này cũng chứng minh giấy phép lái xe từ hạng B2 được cấp cho người hành nghề lái xe là người đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe; Pháp luật lao động chứng minh việc áp đặt thời gian thử việc và việc làm thử là hoàn toàn trái với quy định “quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau” và đương nhiên bị vô hiệu; Biên bản hòa giải lao động của Cơ quan hòa giải lao động là chứng cứ chứng minh SMI không chứng minh được lý do nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lý do có căn cứ và hợp pháp thì yêu cầu khởi kiện của ông Thành đương nhiên là yêu cầu có căn cứ và hợp pháp.
- Thứ năm, trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm, ông Thành phát hiện và bổ sung đơn khởi kiện về nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” của Quyết định số 18/QĐ/2013 và nội dung “làm thử việc” của Biên bản hòa giải lao động là các nội dung vô hiệu do nhầm lẫn và trái pháp luật. Phớt lờ yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành, Tòa án sơ thẩm không tuyên bố nội dung vô hiệu là cố ý thực hiện trái quy định của pháp luật.
- Thứ sáu, khi tuyên án, Tòa án sơ thẩm mới công bố căn cứ Thông tư 46/2012/TT-BGTVT để xét xử là xâm phạm quyền được biết thông tin và tranh luận của ông Thành. Khoản 2 Điều 9 của Thông tư này quy định rõ ràng hình thức đào tạo lái xe là đào tạo sơ cấp nghề và ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe. Mặc dù trích dẫn Điều 9 của Thông tư này nhưng Tòa án sơ thẩm lại xuyên tạc rằng nghề lái xe phải qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ nên thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP (?!). Không có tài liệu, chứng nào của SMI thể hiện SMI áp dụng Thông tư và Nghị đình này chứng minh Tòa án sơ thẩm không vô tư khi tiến hành tố tụng và bịa đặt ra nội dung trình bày của SMI thể hiện trong Bản án sơ Thẩm.
- Thứ bảy, Bản án sơ thẩm thể hiện không đúng, không đầy đủ, không chính xác nội dung đơn khởi kiện của Nguyên đơn. Mặt khác, Bản án sơ thẩm thể hiện nội dung trình bày của Bị đơn cho dù Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.
- Thứ tám, Giấy ủy quyền của SMI không hợp lệ. Tòa án sơ thẩm tiến hành hòa giải không đúng quy định tố tụng. Biên bản hòa giải của Cơ quan hòa giải lao động đề nghị ông Thành khởi kiện để Tòa án giải quyết theo thẩm quyền nhưng Tòa án đã từ chối cung cấp thông tin, tài liệu mà SMI đã cung cấp cho Tòa án và từ chối yêu cầu thu thập chứng cứ theo yêu cầu của ông Thành tại phiên hòa giải. Ông Thành chỉ biết Tòa án sơ thẩm căn cứ Thông tư 46/2012/TT-BGTVT để giải quyết vụ án khi Tòa án tuyên án sơ thẩm chứng minh Tòa án không phổ biến cho ông Thành biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án như thể hiện tại Biên bản hòa giải ngày 18/07/2013. Do đó, các tài liệu của bà Châu và Tòa án sơ thẩm ban hành ngày 18/07/2013 là các tài liệu không hợp pháp. Tòa án sơ thẩm không chứng minh được bà Châu là đại diện theo ủy quyền của SMI tại phiên tòa sơ thẩm thì đơn đề nghị xét xử vắng mặt của bà Châu đương nhiên là không hợp pháp.
- Thứ chín, ông Thành chỉ có hai yêu cầu khởi kiện là (1) yêu cầu SMI hủy bỏ Quyết định số 18/QĐ/2013 và ban hành quyết định công khai xin lỗi ông Thành do Tổng giám đốc ký và (2) yêu cầu SMI bồi thường một khoản tiền theo đúng quy định của pháp luật do hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Cả hai yêu cầu này đều thuộc phạm vi khởi kiện theo quan hệ pháp luật và quan hệ tranh chấp. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Thành có quyền thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại thời điểm giải quyết vụ án. Tòa án sơ thẩm không chỉ ra các trường hợp vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện được quy định tại điều khoản cụ thể của văn bản pháp luật nào mà lại tùy tiện cho rằng yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Thành thể hiện trong Đơn khởi kiện ngày 04/09/2013 là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện được thể hiện trong đơn khởi kiện là không có cơ sở.
- Thứ mười, Bản án sơ thẩm không căn cứ vào tài liệu, chứng cứ rõ ràng và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành. Nghiêm trọng hơn, Tòa án sơ thẩm chỉ căn cứ vào tài liệu bất hợp pháp của cá nhân bà Châu và tài liệu có nội dung vô hiệu để tuyên án và ban hành bản án trái pháp luật. Rất nghiêm trọng, Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hợp đồng lao động nhưng Tòa án sơ thẩm lại tùy tiện cho rằng không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh hợp đồng lao động có thời hạn 3 tháng rồi lại không xác định thời hạn. Đặc biệt nghiêm trọng, bất chấp Thông báo thụ lý vụ án lao động sơ thẩm số 56/TB-TA, Tòa án trả lời khiếu nại sai sự thật rằng ông Thành không nộp chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án.
- Thứ mười một, nhiều vi phạm tố tụng nghiêm trọng khác.
|