HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
| ||||||
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 06 năm 2017
ĐƠN YÊU CẦU Kính gửi: Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh I. NGƯỜI YÊU CẦU ĐỐI CHẤT
Ông: Nguyễn Đức Thành II. NGƯỜI TRẢ LỜI ĐỐI CHẤT
1. Bị đơn là Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (S.M.I). III. LÝ DO YÊU CẦU Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 87 của Bộ luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2007 thì người sử dụng lao động là Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế có nghĩa vụ chứng minh lỗi của người lao động là ông Thành. Tuy nhiên, xem đi xem lại Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mà ông Thành vẫn không biết Tòa án đã căn cứ vào tài liệu, chứng cứ nào của bị đơn là Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế để chứng minh 3 lỗi (1. Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu; 2. Nhưng không biết nhận lỗi; 3. Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua) nêu tại Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của Bị đơn là lỗi của ông Thành và chứng minh thời gian thử việc của ông Thành là 30 ngày. Nghiêm trọng hơn, Bản án có phần trình bày của Bị đơn mâu thuẫn với sự thật là Bị đơn không tham gia tố tụng. Không có tài liệu nào của Bị đơn thể hiện Bị đơn căn cứ Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 10/05/2003 và các Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT ngày 07/11/2012, Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/07/2009 để ra Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013. Trong quá trình tố tụng, Bị đơn cũng không căn cứ các văn bản quy phạm pháp luật luật để chứng minh “lỗi của ông Thành và thời gian thử việc của ông Thành là 30 ngày”. Các luận điệu “nếu giao cho ông Thành mua lốp xe thì sẽ gây thiệt hại cho Công ty; …việc đổ xăng vào xe chạy dầu là rất nguy hiểm và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến độ bền của động cơ (mặc dù trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ diesel); …phải trải qua đào đạo về chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ nên thời gian thử việc là 30 ngày” cũng không phải là của Bị đơn trình bày. Nghiêm trọng hơn, các cơ quan tiến hành tố tụng không phải là người đại diện và cũng không phải là người bảo vệ quyền lợi của Bị đơn nhưng lại căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật và những luận điệu này để ra bản án và giải quyết đơn của ông Thành. Ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi nhưng cũng đã cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh bác bỏ nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” và 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của Bị đơn. Bị đơn không đưa ra tài liệu, chứng cứ và cũng không tham gia tố tụng để phản đối, bác bỏ các tài liệu, chứng cứ của ông Thành thì những tài liệu, chứng cứ này đương nhiên phải là căn cứ để xét xử và ra bản án. Rất nghiêm trọng, các cơ quan tiến hành tố tụng không căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ của ông Thành để xét xử, ra bản án và giải quyết đơn của ông Thành mà không rõ lý do. IV. NỘI DUNG YÊU CẦU Căn cứ khoản 17 và khoản 19 Điều 70, Điều 71, Điều 100 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trân trọng đề nghị quý Tòa cho đối chất giữa ông Thành với Bị đơn, những người trực tiếp tiến hành tố tụng và những người có thẩm quyền ký ban hành các văn bản liên quan đến việc giải quyết vụ án và các đơn của ông Thành để làm rõ những tài liệu, chứng cứ, tình tiết và căn cứ pháp luật để xét xử, ra bản án và giải quyết các đơn của ông Thành. Tùy vào diễn biến giải quyết vụ án mà ông Thành sẽ đặt các câu hỏi đối chất phù hợp với thực tế giải quyết và câu trả lời của những người trả lời đối chất. Tuy nhiên, những người trả lời đối chất cũng có thể tham khảo trước các câu hỏi đã được ông Thành công bố tại hồ sơ vụ án tại các địa chỉ htg.vn/smi hoặc ThuongHieuDoanhNghiep.Vn/smi. M4H | ||||||
|