HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
Thương Hiệu Doanh Nghiệp là cái tên dễ nhớ, gần gũi và Thương Hiệu là mục tiêu chung của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi hội tụ Thành công - Thịnh vượng - Phồn vinh của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi tôn vinh và khẳng định đẳng cấp thương hiệu của doanh nghiệp thương hiệu.

HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG

Về việc: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành

Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (Viết tắt là Công ty Quốc tế hoặc SMI)

Cơ quan hòa giải lao động: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Tòa án sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Tòa án phúc thẩm: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn; Tranh chấp về hành chính giữa Nguyên đơn và Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Chứng minh và chứng cứ: HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng được lỗi của ông Thành thì chỉ cần Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI cũng đủ chứng cứ chứng minh SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt nội dung án oan sai: Ông Thành vẫn  hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm chứng minh Tòa án hai cấp đã không căn cứ chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành mà chỉ căn cứ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty Quốc tế để giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

- Hồ sơ vụ án lao động sơ thẩm số 56/2013/TLLĐ-ST ngày 30/5/2013 và vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có tài liệu không hợp pháp nhưng được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án; có tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp nhưng bị cố ý bỏ qua theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng; không có tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành vì Tòa án hai cấp không thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ và Tòa án phúc thẩm không lập biên nhận tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành.

- Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 là các bản án được xét xử trái pháp luật và theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.


Án oan sai: Ai làm gì được ta?

Tòa án lạm quyền tùy tiện thay đổi thẩm phán phụ nhưng không tuân thủ pháp luật thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự là không công bằng.

Cản trở việc khởi kiện bằng yêu cầu Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng miệng. Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là chứng cứ chứng minh hợp đồng miệng được Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án ngay từ khi nộp đơn khởi kiện nhưng Tòa án lại trả lời khiếu nại rằng Nguyên đơn không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu... chỉ là hai trong số nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền.

Lạm quyền tiếp tay cho lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động của Công ty Quốc tế nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan hòa giải lao động lẩn trốn yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những cán bộ có sai phạm và khai trừ đảng đối với những đảng viên có sai phạm.

Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? Ai? Không ai? Vậy thì ta cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật nghiêm trọng, thản nhiên ra quyết định trái pháp luật rất nghiêm trọng và ngang nhiên ban hành bản án trái pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án oan sai này là minh chứng cho tuyên bố bất chấp pháp luật của ta.

  
Lý do không được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp


Căn cứ Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS thì
ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi và
Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18 là chứng cứ chứng minh SMI đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.


“Xe Captival 52LD-4812 máy dầu bị đổ nhầm xăng vẫn chạy bình thường”


Chữ ký trong Quyết định số 18 và Giấy ủy quyền khác nhau


Lốp cũ xe CAPTIVAL của Nhật (MADE IN JAPAN)


Lốp mới xe CAPTIVAL của Thái Lan (THAILAND)


Nhân chứng xác nhận báo giá của mình

(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật

THÔNG TIN MỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUẢNG CÁO - LIÊN KẾT
Võ Thuật


QUẢNG CÁO

0912 82 2628

VĂN BẢN SỐ 1733/TATP-TLĐ VÀ NỘI DUNG ĐƠN KHIẾU NẠI VĂN BẢN NÀY

Đơn khiếu nại ngày 18/07/2014 sửa đổi, bổ sung Đơn khiếu nại ngày 7/7/2014. Khiếu nại: “Quyết định và hành vi hành chính của cơ quan, người có thẩm quyền”.

Sống là quyền cơ bản của con người theo quy định tại Điều 34 và 43 của Hiến pháp. Sự sống chết của con người mà Tòa án cứ thờ ơ và thản nhiên phớt lờ viện cớ lý do “không thể hiện được nhu cầu cấp bách của đương sự”.

Người lao động sống bằng tiền lương từ việc làm hợp pháp của mình chứ không phải từ tiền trộm cắp, cướp giật, tham nhũng, hối lộ hay chạy án. Khi người lao động không có nguồn thu nhập từ tiền lương thì sự sống có bị đe dọa không? Nhu cầu sống có phải là nhu cầu cấp bách không mà Văn bản số 1733 lại cho rằng không thể hiện được nhu cầu cấp bách của đương sự? Còn các trường hợp khác là gì?

I. NỘI DUNG KHIẾU NẠI

- Căn cứ văn bản số 1733/TATP-TLĐ ngày 4/7/2014 (viết tắt là Văn bản số 1733).

Quyết định số 18 của SMI là quyết định sa thải người lao động không thuộc trường hợp nào được quy định tại Điều 85 Bộ luật lao động. Khi khởi kiện, theo quy định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự, ông Thành đã đưa ra chứng cứ để chứng minh (xem văn bản Chứng minh và Chứng cứ, Tranh luận sơ thẩm) là chỉ ra SMI không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành theo quy định tại Điều 87 Bộ luật lao động. SMI không thực hiện nghĩa vụ chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành, Biên bản hòa giải của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh cũng thể hiện SMI không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành, bà Châu cũng thừa nhận với Hòa giải viên là không biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành. Thì đương nhiên, 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 không phải là lỗi của ông Thành. Vậy, ông Thành còn phải chứng minh là mình không có lỗi như thế nào đối với những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 80 Bộ luật tố tụng dân sự? Và tại sao ông Thành không có lỗi mà lại phải đi chứng minh là mình không có lỗi? Tòa án không yêu cầu SMI chứng minh lỗi của ông Thành mà lại yêu cầu ông Thành chứng minh ngược là mình không có lỗi, yêu cầu của Tòa án thể hiện sự bất bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự quy định tại Điều 8 Bộ luật tố tụng dân sự và vi phạm nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng quy định tại Điều 16 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án áp dụng pháp luật không đầy đủ, không toàn diện tình tiết của vụ án mà cho rằng “ông Thành cho rằng ông không có nghĩa vụ chứng minh là chưa đúng” thể hiện người tiến hành tố tụng chỉ cưỡi mây xem lướt nhanh hồ sơ chứ không thể hiện ý thức trách nhiệm nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để giải quyết khiếu kiện khách quan, chính xác, kịp thời và đúng pháp luật.

Sống là quyền cơ bản của con người theo quy định tại Điều 34 và 43 của Hiến pháp. Người lao động sống bằng tiền lương từ việc làm hợp pháp của mình chứ không phải từ tiền trộm cắp, cướp giật, tham nhũng, hối lộ hay chạy án. Khi người lao động không có nguồn thu nhập từ tiền lương thì sự sống có bị đe dọa không? Nhu cầu sống có phải là nhu cầu cấp bách không mà Văn bản số 1733 lại cho rằng không thể hiện được nhu cầu cấp bách của đương sự? Còn các trường hợp khác là gì? Sự sống chết của con người mà Tòa án cứ thờ ơ và thản nhiên phớt lờ viện cớ là lý do “không thể hiện được nhu cầu cấp bách của đương sự”. Lý do của Tòa án là mơ hồ, mèo mù vớ cá độc, chết đuối gắng gượng bám víu cọc mục nát, không rõ ràng, không thuyết phúc và thể hiện sự vô trách nhiệm, vô nhân đạo, vô lương tâm, vô cảm của người có thẩm quyền, và đương nhiên, cũng là lý do chưa được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp. Tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hành vi đe dọa cuộc sống của người lao động được quy định tại khoản 2 Điều 38 của Hiến pháp mà nhu cầu cấp bách đã được thể hiện trong Đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT ngày 04/11/2014. Ông Thành vẫn duy trì được sự sống để thực hiện hành trình gian nan đòi lại lẽ phải và bảo vệ công lý là nhờ vào quy luật “Trời nghiêm trị thì sớm muộn gì cũng sẽ bị quả báo. Người hại thì còn phải xem người bị hại là ai”. Lý do không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trong Văn bản số 678 đã bị phản tố bằng Đơn khiếu nại ngày 14/04/2014 nhưng đến nay Tòa án vẫn chưa giải quyết đúng quy định của pháp luật.

Sau khi thụ lý và trước khi xét xử vụ án sơ thẩm, Tòa án sơ thẩm tùy tiện xuyên tạc việc khởi kiện của ông Thành từ “đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật” thành “đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc” rồi cho rằng đây là tranh chấp và chỉ giải quyết tranh chấp này thay vì giải quyết “tranh chấp là 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18”. Văn bản 346 và Quyết định số 20 của Tòa án sơ thẩm chỉ trả lời chung là căn cứ tài liệu, chứng cứ mà không chỉ rõ là tài liệu, chứng cứ, nội dung nào chứng minh nhận định của Tòa án sơ thẩm là có căn cứ và hợp pháp. Quyết định số 18 của SMI là nguồn gốc phát sinh tình tiết thử việc nên ông Thành yêu cầu Tòa án phúc thẩm tuyên bố nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” của Quyết định này là nội dung vô hiệu và giải quyết yêu cầu 9 trong Đơn khiếu nại ngày 7/7/2014 trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm là có cơ sở.

Bản án sơ thẩm và các tài liệu khác của Tòa án sơ thẩm không phải là căn cứ hợp pháp để Tòa án phúc thẩm cho rằng, ông Thành là nguyên đơn trong vụ tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc. Tòa án phúc thẩm có quyền và nghĩa vụ sửa, hủy bản án sơ thẩm và các tài liệu khác do Tòa án sơ thẩm ban hành trái pháp luật. Nếu Tòa án phúc thẩm sử dụng Bản án sơ thẩm và các tài liệu khác do Tòa án sơ thẩm ban hành thì Tòa án phúc thẩm phải giải quyết dứt điểm tranh chấp hành chính giữa ông Thành và Tòa án theo quan hệ pháp lý là quan hệ hành chính trước.

Văn bản 678 và 1733 đều thể hiện Tòa án phúc thẩm thụ lý vụ án phúc thẩm trên cơ sở Bản án sơ thẩm là về việc “đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc”. Do đó, ông Thành phải làm rõ tại sao Bản án sơ thẩm lại thể hiện việc khởi kiện và tranh chấp lao động là “đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc”. Văn bản của Tòa án sơ thẩm trả lời Đơn yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ ngày 16/04/2014 và văn bản giải quyết khiếu nại của Cơ quan hòa giải lao động quận Bình Thạnh trả lời Đơn khiếu nại ngày 10/04/2014, theo quy định tại Điều 81 Bộ luật tố tụng dân sự, là chứng cứ chứng minh Bản án sơ thẩm thể hiện sai việc khởi kiện của ông Thành là “đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật” và tranh chấp lao động giữa ông Thành và SMI là “3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của SMI”. Theo nguồn chứng cứ quy định tại khoản 1, 3, 9 Điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự thì hai văn bản này là tài liệu đọc được của đương sự Tòa án, Cơ quan hòa giải lao động được cung cấp và thu thập theo quy định tại Điều 6, 7, 58, 59, 85, 94 Bộ luật tố tụng dân sự và các quy định khác của Luật khiếu nại. Tài liệu nằm ở trong đầu Thẩm phán Trần Đăng Tân và Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc là tài liệu nghe được, khi các tài liệu nghe được này được thể hiện trong văn bản thì là tài liệu đọc được và nhìn được, các tài liệu nghe được, nhìn được và đọc được này được chấp nhận là chứng cứ nếu nội dung tài liệu không mâu thuẫn với nội dung trình bày của ông Thành, nếu có mâu thuẫn thì Tòa án thực hiện đối chất theo quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng dân sự để làm rõ và xác định các tài liệu đó có được chấp nhận là chứng cứ theo quy định tại Điều 81 Bộ luật tố tụng dân sự hay không. Ông Thành đã thực hiện quyền thu thập chứng cứ của mình để nộp cho Tòa án phúc thẩm nhưng hai cơ quan này không thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho ông Thành mà không có văn bản trả lời lý do về việc không cung cấp tài liệu, chứng cứ. Ông Thành đã yêu cầu Tòa án phúc thẩm thu thập chứng cứ theo Đơn yêu cầu ngày 29/04/2014, nhưng Văn bản 1733, Tòa án trả lời “trong hồ sơ không thể hiện 2 văn bản trả lời của 2 cơ quan này” thể hiện Tòa án phúc thẩm cố ý không thực hiện thu thập chứng cứ theo thẩm quyền sau khi ông Thành đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được.

Văn bản 1733 né tránh trả lời lý do vì sao Tòa án không cung cấp Biên bản Nghị quyết không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng xét xử sơ thẩm cho ông Thành.

Văn bản 1733 thể hiện “văn bản này là văn bản trả lời cuối cùng” là thể hiện một trong các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật khiếu nại. Biên bản làm việc ngày 29/04/2014, ông Tùng giải thích “Lãnh đạo Tòa lao động sẽ báo cáo với Lạnh đạo Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có văn bản trả lời theo quy định của pháp luật”, nhưng Thẩm phán Trần Xuân Thủy ký Văn bản 1733 với chức danh Thẩm phán chứ không phải chức danh của Lãnh đạo Tòa án là can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết khiếu nại quy định tại khoản 4 Điều 6 Luật khiếu nại.

Kéo dài đến ngày 7/7/2017 ông Thành mới nộp đơn khiếu nại đến Lãnh đạo Tòa án là việc làm chứng minh ông Thành đã hợp tác toàn diện với Tòa án nhưng chính những người có thẩm quyền lại ép ông Thành phải viết quá nhiều đơn khiếu nại.

Kết luận: Ông Thành ghi nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2106/2014/QĐPT-LĐ ngày 07/07/2014 đã thể hiện việc khởi kiện là “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”. Ông Thành đánh giá đây là việc làm tích cực của Tòa án. Tuy nhiên, Văn bản 1733 vẫn thể hiện việc bao che cho người bị khiếu nại và né tránh trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, việc giải quyết khiếu nại chưa đúng trọng tâm câu hỏi của yêu cầu giải quyết khiếu nại, chưa được thực hiện bảo đảm khách quan, kịp thời và đúng pháp luật. Niềm tin của ông Thành trong vụ án này là một mất một còn phụ thuộc vào cảm hứng và cảm tính vô lý trí của người có thẩm quyền. Tòa án chưa thể hiện trách nhiệm cho ông Thành thấy có niềm tin là vụ án sẽ được giải quyết theo đúng pháp luật.

II. YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

Sửa đổi, bổ sung yêu cầu giải quyết khiếu nại của Đơn khiếu nại ngày 7/7/2014 như sau:

1.    Nhu cầu sống của ông Thành có phải là nhu cầu cấp bách không? Tại sao? Các trường hợp khác được quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành cụ thể là trường hợp nào?

2.    Tại sao Tòa án không cung cấp Biên bản Nghị quyết không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng xét xử sơ thẩm cho ông Thành theo Đơn yêu cầu cung cấp tài liệu ngày 29/4/2014?

3.    Hủy nội dung “ông cho rằng ông không có nghĩa vụ chứng minh là chưa đúng”.

4.    Ông Thành đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được. Tại sao Tòa án phúc thẩm, Viện kiểm sát đồng cấp không yêu cầu Tòa án sơ thẩm và Cơ quan hòa giải lao động cung cấp chứng cứ là hai văn theo theo yêu cầu của ông Thành, theo quy định tại Điều 5, điểm a khoản 1 Điều 14, điểm a khoản 1 Điều 14, Điều 19, 20 của Luật khiếu nại và Điều 7, 21, 24, 40, 41, 44, 45, 85, 86, 87, 94 của Bộ luật tố tụng dân sự?

5.    Căn cứ vào điều khoản của văn bản pháp luật nào để Tòa án ra tối hậu thư Văn bản 1733 là văn bản trả lời cuối cùng?

6.    Sửa đổi, bổ sung yêu cầu 9 của Đơn khiếu nại ngày 7/7/2014 như sau:

“9. Tuyên bố: Nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” và nội dung “việc làm thử, thời gian thử việc” phát sinh theo nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” trong hồ sơ vụ án là nội dung vô hiệu. Nhưng Tòa án sơ thẩm không tuyên bố “Hợp đồng lao động giữa ông Thành và Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế giao kết bằng miệng ngày 26/02/2013 không có nội dung thỏa thuận về việc làm thử và thời gian thử việc. Nội dung thử việc là nội dung phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng gồm có nội dung thời gian thử việc phát sinh tại thời điểm hợp đồng bị đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật ngày 26/03/2013 làm phát sinh nội dung việc làm thử tại thời điểm khiếu nại ngày 27/03/2013. Nội dung thử việc là nội dung vô hiệu của hợp đồng đã được ông Thành chứng minh đúng pháp luật tại thời điểm cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ khởi kiện ngày 06/05/2013” theo quy định tại khoản 4 Điều 166 Bộ luật lao động.”

7.    Sửa đổi, bổ sung yêu cầu 7 của Đơn khiếu nại ngày 7/7/2014 như sau:

“7. Căn cứ Điều 257 Bộ luật tố tụng dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2011, điểm b và c Điều 40, Điều 46, Điều 47, Điều 53 Bộ luật tố tụng dân sự thì Chánh án là người có thẩm quyền thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 Thẩm phán và chỉ thay đổi Thẩm trong những trường hợp pháp luật có quy định. Nhưng có 7 Thẩm phán tham gia Hội đồng xét xử phúc thẩm và việc thay đổi Thẩm phán Nguyễn Thành Vinh không rõ thuộc trường hợp nào. Yêu cầu 6 của Đơn khiếu nại ngày 7/7/2014 và yêu cầu 7 của Đơn khiếu nại ngày 26/03/2014 chưa được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Chánh án giải thích thế nào về việc vi phạm tố tụng này?”

8.    Nếu Tòa án xét Bản án sơ thẩm và các tài liệu khác của Tòa án sơ thẩm ban hành là cơ sở để giải quyết vụ án phúc thẩm thì Tòa án phải giải quyết tranh chấp giữa ông Thành và Tòa án trước.

9.    Nếu Hội đồng xét xử phúc thẩm tham gia Phiên tòa phúc thẩm ngày 23/07/2014 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2016/2014/QĐPT-LĐ ngày 7/7/2014 mà bất chấp pháp luật xét xử theo ý chí chủ quan, hoặc theo chỉ đạo án từ dưới lên trên, thì đây sẽ là tình tiết tăng nặng trong việc truy cứu trách nhiệm về sau.

10. Giữ nguyên các yêu cầu (không có sửa đổi, bổ sung) khác của Đơn khiếu nại ngày 7/7/2014.


MH72

CÔNG TY TNHH MTV THƯƠNG HIỆU VẬN TẢI BA THÀNH
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.6899.6850 & 08.6899.6846 - Hotline: 0912 82 2628
Email: info@thuonghieudoanhnghiep.vn