BIÊN BẢN HÒA GIẢI SƠ THẨM
Ngày 18/7/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh
TRANH LUẬN, CHỨNG MINH VÀ CHỨNG CỨ: LUẬN CỨ
Sửa đổi, bổ sung, hợp nhất
Phần
Nội dung vô hiệu do cố ý làm trái pháp luật và
Hành vi vi phạm tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng
Thủ đoạn và tiểu xảo lập biên bản rất nghiệp vụ và tinh vi
Biên bản hòa giải ngày 18/07/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh là tài liệu không hợp lệ và bị vô hiệu vì: Thứ nhất, Thẩm phán Trần Đăng Tân trải lời Thư ký Tòa án Đoàn Quốc Dũng là Bị đơn là Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế đã nộp giấy ủy quyền mâu thuẫn với ông Dũng trả lời ông Thành là Bị đơn chưa nộp giấy ủy quyền, mặt khác, trong hồ sơ vụ án có 2 giấy ủy quyền ghi ngày 02/07/2013 có cùng nội dung nhưng khác nhau về hình thức là chứng cứ chứng minh bà Hồ Thị Bảo Châu không phải là đại diện theo ủy quyền hợp pháp của Bị đơn. Thứ hai, tại thời điểm hòa giải sơ thẩm lần 2 ngày 18/07/2013 chỉ có Thẩm phán Trần Đăng Tân biết nội dung Bản tự khai của bà Châu, tuy nhiên, Bản tự khai ngày 19/06/2013 của ông Thành mâu thuẫn với Bản tự khai ngày 18/07/2013 của bà Châu nhưng Tòa án cố ý không thực hiện đối chất theo quy định tại Điều 88 của Bộ luật tố tụng dân sự. Thứ ba, Thẩm phán Trần Đăng Tân không thực hiện thu thập chứng cứ theo yêu cầu của ông Thành tại phiên hòa giải ngày 18/07/2013, theo quy định tại các điều Điều 85, Điều 86, Điều 87, Điều 94 của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng lại tùy tiện ghi vào biên bản “Các đương sự xác nhận không còn bất cứ tài liệu, chứng cứ nào để nộp cho Tòa án”.
Quy luật nhân quả: Gậy tiểu nhân đập bỉ ổi
Biên bản hòa giải sơ thẩm ngày 18/7/2013 do Thẩm phán Trần Đăng Tân tạo lập theo ý chí chủ quan và trái pháp luật là chứng cứ chứng minh: (i) Khi tuyên án, Tòa án sơ thẩm mới công bố căn cứ Thông tư 46/2012/TT-BGTVT để xét xử là xâm phạm quyền được biết thông tin và tranh luận của ông Thành theo các Điều 58, 59 của BLTTDS; (ii) Khi tiến hành hòa giải, Tòa án sơ thẩm cố ý không thu thập chứng cứ, vi phạm thủ tục tố tụng về người đại diện và thực hiện trái nguyên tắc hòa giải, nội dung hòa giải, trình tự hòa giải quy định tại Điều 180, 185 và 185a và khoản 7 Điều 57, khoản 3 Điều 73, khoản 2 Điều 74, Điều 85, 86, 87, 88, 94 của BLTTDS.
Ngày 19/06/2013, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh lập Biên bản về việc không tiến hành hòa giải được do Bị đơn là Công ty TNH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế vắng mặt.
Biên bản ngày 19/06/2013 thể hiện ý kiến của ông Thành giữ nguyên yêu cầu theo Bản tự khai
Biên bản ngày 18/07/2013 thể hiện ý kiến của ông Thành giữ nguyên yêu cầu theo đơn khởi kiện
Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm tùy tiện thể hiện sai trái nội dung khởi kiện của ông Thành thể hiện tại đơn khởi kiện
Ngày 18/07/2013, Tòa án hòa giải không thành do Bị đơn không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn là ông Nguyễn Đức Thành. Trong lúc Tòa án hòa giải và hỏi “Các bên có yêu cầu bổ sung gì không?”, ông Thành có đưa ra yêu cầu thu thập thêm chứng cứ bằng việc lập biên bản đối thoại giữa Nguyên đơn và Bị đơn, mời người làm chứng là ông Đoàn Văn Túy đang có mặt tại Tòa ký vào văn bản chứng cứ do ông Thành đã soạn thảo sẵn nhưng Tòa án từ chối thực hiện. Sau khi hòa giải, ông Thành nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử Số 270/2013/QĐXX-ST ghi ngày 18/07/2013, ông Thành đề nghị Tòa án cho xem và sao chụp hồ sơ vụ án nhưng Tòa án chỉ cho xem mà không cho sao chụp với lý do “Bị đơn chưa có Giấy ủy quyền”.
Đại diện của Bị đơn không có ủy quyền hợp pháp nhưng Tòa án vẫn tiến hành hòa giải có mặt cả Bị đơn và Nguyên đơn là vi phạm thủ tục tố tụng tại khoản 7 Điều 57, khoản 3 Điều 73, khoản 2 Điều 74 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Biên bản hòa giải ngày 19/06/2013 và ngày 18/07/2013 có cùng nội dung này. Tuy nhiên, những người tiến hành và tham gia hòa giải ngày 19/06/2013 chỉ có Nguyên đơn là ông Nguyễn Đức Thành và Thư ký Tòa án là ông Đoàn Quốc Dũng chứng minh ông Thành không biết Thẩm phán Trần Đăng Tân ngồi ở đám mây nào rơi vào biên bản.
- Thời điểm hòa giải ngày 18/07/2013, ông Thành chưa biết các quy định của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Chỉ khi Tòa án tuyên án sơ thẩm thì ông Thành mới được biết Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh Tòa án không phổ biến cho ông Thành biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
- Nhiệt liệt hưởng ứng đề nghị “hợp tác cùng Tòa án” và để có chứng cứ chứng minh Nguyên đơn có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Đương sự thì ông Thành chỉ có lựa chọn phải ký cho hoàn thành thủ tục về hình thức rồi tùy chính hay tà mà ứng biến phù hợp với bản chất về nội dung “sự thật là chứng cứ”. Đó là hiện thực hóa nguyên tắc “vừa hợp tác vừa đấu tranh” (Trích lời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng). |
Hành vi không công bố nội dung Bản tự khai của bà Châu, không cung cấp Bản tự khai cho ông Thành ngay sau khi kết thúc hòa giải, không cho ông Thành đối thoại với bà Châu tại buổi hòa giải, không thực hiện thu thập chứng cứ theo yêu cầu của ông Thành tại buổi hòa giải ngày 18/07/2013. Nội dung trình bày ý kiến của các đương sự trong Biên bản hòa giải ngày 18/07/2013 và Bản án sơ thẩm là chứng cứ chứng minh Thẩm phán Trần Đăng Tân đã cố ý dùng thủ đoạn bưng bít thông tin có mâu thuẫn và gian lận thông tin, làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án rất tinh vi (bài bản và chuyên nghiệp) và có nghề (làm quan), vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng.
Tòa án sơ thẩm không cho thực hiện đối chất giữa các đương sự theo yêu cầu của Nguyên đơn để thu thập chứng cứ bổ sung là biên bản đối thoại làm rõ thêm một số tình tiết liên quan của vụ án mà lại sử dụng các tài liệu không hợp lệ, các thông tin do chính Tòa án cố ý xuyên tạc để xét xử là hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng.
Đương sự cung cấp chứng cứ và tự chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Thu thập chứng cứ là do đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát thực hiện nhưng Tòa án từ chối thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự trong khi nhân chứng có mặt tại Tòa án (phiên hòa giải ngày 18/07/2013) là trái pháp luật tại các Điều 6, khoản 8 Điều 41, điểm c và l khoản 2 Điều 58, khoản 2 Điều 85, Điều 87 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
MH67