HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
| ||||||
VĂN BẢN SỐ 346/TAQBTh Ông Thành có quyền của đương sự là quyền sửa đổi, bổ sung tài liệu, chứng cứ trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa các cấp. Tòa án sơ thẩm lợi dụng việc ông Thành giải thích về tính pháp lý của hợp đồng lao động miệng để bịa đặt ra hợp đồng thử việc không có nội dung thử việc và áp đặt “chính ông Thành thừa nhận giao kết giữa đôi bên là làm thử việc lái xe” mâu thuẫn với nội dung “Việc làm trong thời gian thử việc theo Luật tạm gọi là việc làm thử” trong văn bản “Phúc đáp văn bản số 346/TAQBTh” ngày 12/06/2013 của ông Thành. Chi tiết, xem “điểm e Luận cứ 5 của Hợp đồng lao động”. Tòa án sơ thẩm căn cứ vào nội dung đã bị bãi bỏ để xét xử là không có cơ sở. Tôi không đồng ý với Công văn Số 346/TAQBTh của Tòa án do Thẩm phán Trần Đăng Tân đề ký ngày 03/06/2013, như sau: 1. Tóa án đưa ra lý do hợp đồng thử việc không thể hiện có thời hạn (3 tháng) để không ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không có cơ sở pháp lý. Pháp luật không quy định hợp đồng có thời hạn hay không có thời hạn là căn cứ để Tòa án không ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nếu có, Tòa án cho tôi biết căn cứ điều khoản của văn bản pháp lý nào? 2. Nội dung vô hiệu và Luận cứ của Hợp đồng lao động và Hợp đồng lao động miệng bãi bỏ nội dung này. Nội dung tranh luận về hợp đồng lao động tại các văn bản khác như văn bản Chứng minh và Chứng cứ ngày 6/5/2013 được sửa đổi, bổ sung ngày 03/09/2014, Bản tự khai ngày 19/6/2013 đương nhiên bãi bỏ nội dung của Văn bản ngày 12/6/2013. Lợi dụng để lừa dối theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật dân sự là hành vi cố ý làm trái pháp luật. Tòa án sơ thẩm cố ý lợi dụng nội dung bị vô hiệu do nhầm lẫn để giải quyết vụ án trái pháp luật thì Tòa án phúc thẩm có thẩm quyền giải quyết lại. Tòa án phúc thẩm cũng cố ý tiếp tay cho hành vi lợi dụng của Tòa án sơ thẩm thì Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giải quyết lại đúng quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự và khoản 4 Điều 166 của Bộ luật lao động.
3. Nghĩa vụ pháp lý và trách nhiệm bồi thường do đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là Nội dung khởi kiện 3 của Đơn khởi kiện bãi bỏ nội dung này.
4. Tôi nộp và ghi đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 27/05/2013 chứ không phải ngày 22/05/2013. Đây có phải là hành vi cố ý làm sai lệch thông tin của Tòa án? Mục đích để làm gì? 5. Ngày 04/06/2013 tôi trực tiếp đến Tòa án nhưng Tòa án không có Công văn số 346/TAQBTh ghi ngày 03/06/2013 để giao cho tôi. Dấu bưu điện là ngày 07/06/2013 sau ngày 06/06/2013 là ngày tôi nộp đơn khiếu nại. Tôi nhận được Công văn này ngày 08/06/2013. Công văn này phải được ra ngày 30/05/2013 chứ không phải ra sau ngày 30/05 và sau ngày tôi nộp đơn khiếu nại. Giải quyết khiếu nại là quyết định giải quyết khiếu nại chứ không phải Công văn này. Tóm lại, Tòa án đưa ra lý do hợp đồng thử việc không thể hiện có thời hạn (3 tháng) để không ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không có cơ sở pháp lý, không thuyết phục. Và, giải quyết khiếu nại là quyết định giải quyết khiếu nại chứ không phải Công văn này.
MH69 | ||||||
|