HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
| ||||||
QUYẾT ĐỊNH SỐ 20/2013/QĐ-TA VÀ NỘI DUNG KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH NÀY Nội dung khiếu nại Quyết định giải quyết khiếu nại số 20/2013/QĐ-TA ngày 11/06/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh được thể hiện tại văn bản Tranh luận sơ thẩm ngày 15/08/2013 và Đơn khiếu nại ngày 07/07/2014. I. TRÍCH ĐƠN KHIẾU NẠI NGÀY 07/07/2014 1. Vi phạm thời hạn thụ lý vụ án sơ thẩm Căn cứ khoản 4 Điều 171 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo là ngày 04/04/2013, chậm nhất là ngày ông Thành đã nộp văn bản Thực hiện Thông báo số 07 cho Tòa án sơ thẩm là ngày 12/04/2013. Tuy nhiên, đến ngày 30/05/2013 Tòa án sơ thẩm mới thụ lý vụ án là vi phạm tố tụng. Thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 của Bộ luật này phải được tính từ ngày thụ lý vụ án theo quy định tố tụng là ngày 04/04/2013, chậm nhất là ngày 12/04/2013. Quyết định số 20 của Tòa án sơ thẩm thể hiện thời hạn chuẩn bị xét xử tính từ ngày 30/05/2013 là thực hiện trái quy định tố tụng. 2. Giải quyết khiếu nại trái pháp luật Căn cứ Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 04/11/2013 đã thể hiện căn cứ pháp lý là khoản 1 Điều 99, khoản 4 Điều 102, khoản 1 Điều 100, khoản 2 Điều 117 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nhưng Văn bản số 678 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh lại lập luận “Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự không thể hiện có việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc phải tạm ứng tiền bồi thường cho trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn”. Như ông Thành trình bày trong Đơn khiếu nại bổ sung ngày 14/04/2014, luận điệu ngang ngược này của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là trái luật. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cố ý làm trái pháp luật. Khi nộp đơn khởi kiện, ông Thành đã giải thích rõ hợp đồng lao động giữa ông Thành và Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc Tế được giao kết theo hình thức hợp đồng miệng. Nhưng Thông báo số 07/TB-TAQBTh ngày 11/04/2013, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh lại đưa ra yêu cầu ông Thành nộp bản sao hợp đồng lao động. Đây là yêu cầu không có cơ sở thực hiện và cũng là hành vi hành chính nhằm cản trở việc khởi kiện. Một ngày ngay sau ngày Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ra Thông báo số 07, ngày 12/04/2013 ông Thành đã nộp văn bản thực hiện Thông báo số 07 cho Tòa án sơ thẩm, văn bản này chỉ rõ Quyết định cho nghỉ việc số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 là chứng cứ chứng minh hợp đồng lao động giữa ông Thành và Công ty Quốc Tế. Đến ngày 06/05/2013, ông Thành đã nộp bổ sung các tài liệu và chứng cứ khác. Nhưng Quyết định giải quyết khiếu nại số 20/2013/QĐ-TA ngày 11/06/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh lại thể hiện “ông Thành không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu” là không đúng sự thật. Mặt khác, Quyết định số 20 này thể hiện hồ sơ vụ án có các chứng cứ chứng minh tranh chấp là đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc. Một trong những mâu thuẫn của Quyết định này là, một mặt thể hiện ông Thành không cung cấp chứng cứ, một mặt thể hiện có chứng cứ chứng minh tranh chấp là tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc. Quyết định số 20 cho rằng “ông Thành không cung cấp được chứng cứ thể hiện thỏa thuận giữa nguyên đơn và bị đơn về thời hạn thực hiện hợp đồng thử việc”, Văn bản số 346 cho rằng “các chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện không thể hiện hợp đồng thử việc giữa ông Thành và Công ty Quốc Tế có thời hạn”. Theo quy luật logic, nội dung này thể hiện “hợp đồng thử việc là loại hợp đồng không xác định thời hạn hoặc hợp đồng thử việc không có nội dung thử việc”. Văn bản Thực hiện Thông báo số 07 không thể hiện thời hạn hợp đồng là ba tháng. Nội dung hợp đồng lao động trong văn bản Chứng minh và chứng cứ không có nội dung việc làm thử và thời gian thử việc. Nhưng Quyết định số 20 và Văn bản số 346, một mặt cho rằng không có chứng cứ thể hiện thời hạn hợp đồng thử việc, không có chứng cứ thể hiện hợp đồng thử việc có thời hạn, một mặt áp đặt thời hạn hợp đồng thử việc là ba tháng. Mâu thuẫn của Tòa án là áp đặt hợp đồng thử việc vừa có thời hạn là ba tháng vừa có thời hạn là không xác định. Việc áp đặt này thể hiện Tòa án cố ý làm trái nguyên tắc tự do, thỏa thuận, tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Mâu thuẫn rất rõ ràng miễn chối cãi và bao biện và phản khoa học là không tồn tại hợp đồng thử việc vừa có thời hạn vừa không xác định thời hạn vì hợp đồng thử việc phải có thời gian thử việc theo luật định là không quá 60 ngày nhưng Tòa án không chỉ ra được thời hạn của hợp đồng thử việc và pháp luật quy định không được thử việc đối một số công việc như công việc lái xe. Tòa án sử dụng luận điệu hợp đồng thử việc (ông Thành và Công ty Quốc tế không thỏa thuận thực hiện loại hợp đồng này) trái pháp luật và chứa chấp mâu thuẫn làm lý do không ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn khẩn cấp tạm thời là không có cơ sở. Do đó, Tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của ông Thành là không có căn cứ, là lạm quyền giải quyết theo ý chỉ chủ quan của người có thẩm quyền, là hành vi cố ý làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án. II. TRÍCH TRANH LUẬN SƠ THẨM NGÀY 15/08/2013 - Ngày 04/04/2013, tôi đã nộp đơn khởi kiện SMI đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật cho Tòa án. (Biên nhận số 36/BN-LĐ). - Ngày 11/04/2013, Tòa án ra Thông báo số 07/TB-TAQBTh, trong thông báo có yêu cầu tôi phải cung cấp bản sao (công chứng) hợp đồng lao động (bằng miệng). - Ngày 12/04 và 06/05/2013, tôi đã thực hiện Thông báo số 07/TB-TAQBTh, nộp bổ sung các chứng cứ và chứng minh vụ kiện này cho Tòa án. (Biên nhận số 166/TAQBTH-BN và 200/TAQBTH-BN). - Ngày 27/05/2013, tôi đã nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho Tòa án nhưng không được giải quyết; Ngày 04/06/2013, tôi trực tiếp đến Tòa án lấy quyết định giải quyết đơn nhưng Tòa án trả lời không có, nếu tôi không đồng ý thì cứ việc khiếu nại lên Chánh án. Tòa án chỉ thông báo là đơn khởi kiện của tôi đã được thụ lý giải quyết và yêu cầu tôi về chờ Tòa án mời làm việc; Ngày 06/06/2013, tôi nộp Đơn khiếu nại. (Biên nhận số 253/TAQBTH-BN và 45/TAQBTH-BN). - Ngày 08/06/2013, qua đường bưu điện dấu ngày 07/06/2013, tôi nhận được Công văn Số 346/TAQBTh ghi ngày 03/06/2013. - Ngày 12/06/2013, tôi đã nộp Phúc đáp Công văn Số 346/TAQBTh và nhận Quyết định Giải quyết khiếu nại Số 20/2013/QĐ-TA ghi ngày 11/06/2013, nhận Thông báo Thụ lý vụ án Số 56/TB-TA ghi ngày 30/05/2013. (Biên nhận số 292/TAQBTH-BN). - Ngày 16/06/2013, qua đường bưu điện, tôi nhận được Thông báo về phiên hòa giải Số 01/TB-TA ghi ngày 12/06/2013. - Ngày 19/06/2013, Tòa án hòa giải không thành do vắng mặt bị đơn. Tôi nộp bản tự khai và được xem quyết định phân công thẩm phán giải quyết vụ án của Chánh án ghi ngày 30/05/2013. - Ngày 15/07/2013, tôi đến Tòa án để hỏi diễn biến giải quyết vụ án thì được nhận Thông báo về phiên hòa giải Số 01/2013/TBHG-LĐ ghi ngày 15/07/2013. - Ngày 18/07/2013, Tòa án hòa giải không thành do bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trong lúc Tòa án hòa giải và hỏi “Các bên có yêu cầu bổ sung gì không?”, tôi có đưa ra yêu cầu thu thập thêm chứng cứ bằng việc lập biên bản đối thoại giữa nguyên đơn và bị đơn, mời người làm chứng là ông Đoàn Văn Túy đang có mặt tại Tòa ký vào văn bản chứng cứ do tôi đã soạn thảo sẵn nhưng Tòa án từ chối thực hiện. Sau khi hòa giải, tôi nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử Số 270/2013/QĐXX-ST ghi ngày 18/07/2013, tôi đề nghị Tòa án cho xem và sao chụp hồ sơ vụ án nhưng Tòa án chỉ cho xem mà không cho sao chụp với lý do “Bị đơn chưa có Giấy ủy quyền”. - Ngày 29/07/2013, Tòa án vẫn từ chối cho tôi sao chụp hồ sơ vụ án cũng với lý do “Bị đơn chưa nộp bổ sung Giấy ủy quyền và các chứng cứ gì khác”. Tôi nộp đơn yêu cầu được xem và sao chụp hồ sơ tài liệu vụ án. - Ngày 31/07/2013, lúc 9 giờ 33 phút, Tòa án gọi từ số máy 08.36031187 thông báo tôi đến photo tài liệu. Tòa án từ chối cho tôi sao chụp, ghi chép Quyết định số 56/QĐ-PCTP-LĐ ngày 30/05/2013, Tòa án chỉ cho tôi đọc Quyết định này. Tôi được Tòa án photo có tính phí 2.000 đồng/trang các tài liệu: Biên bản hòa giải ngày 19/06/2013; Biên bản hòa giải ngày 18/07/2013; Bản tự khai của bị đơn ngày 18/07/2013; Giấy ủy quyền của bị đơn ngày 02/07/2013; Giấy thanh toán lương đợt từ 01/03/2013 – 15/03/2013; 02 Phiếu đề nghị thanh toán ngày 26/03/2013; Phiếu chi các số 384 và 385 ngày 26/03/2013; Giấy thông tin làm thêm giờ, số km đi mua hàng bằng xe hai bánh tổng kết ngày 26/03/2013; Sổ chứng nhận kiểm định xe Captival ngày 19/11/2009; Hóa đơn giá trị gia tăng Số 0004663 ngày 06/03/2013; Hóa đơn giá trị gia tăng Số 0001375 ngày 25/03/2013; Hóa đơn vá vỏ ngày 25/03/2013; Phiếu thu công hút bình dầu ngày 09/03/2013.
- Ngày 15/08/2013, tại (trước khi mở) phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án Số 56/2013/TLST-LĐ, tôi nộp bổ sung các chứng cứ là Qua những thông tin trên, tôi nhận thấy Tòa án có hành vi vi phạm pháp luật và cản trở việc khởi kiện, vi phạm thủ tục tố tụng như đã trình bày trong Đơn khiếu nại ghi ngày 06/06/2013, văn bản Phúc đáp Công văn Số 346/TABTh ghi ngày 12/06/2013 và như sau: 1. Về thụ lý vụ án Tôi nộp đơn khởi kiện kèm theo bản photo Quyết định Số 18/QĐ/2013 vào ngày 04/04/2013, nộp đơn khởi kiện sửa đổi và bản sao Quyết định Số 18/QĐ/2013 của SMI vào ngày 12/04/2013 đã đủ căn cứ và hợp pháp để Tòa án thụ lý vụ án theo Điều 80, 83, 165 BLTTDS. Trong thời gian chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, (1) tôi có quyền cung cấp bổ sung chứng cứ, (2) bị đơn giao nộp chứng cứ, (3) Tòa án, Viện kiểm sát thực hiện thu thập chứng cứ theo thủ tục tố tụng. Do vậy, thời hạn thụ lý vụ án phải được tính từ ngày tôi nộp đơn theo khoản 4 Điều 171 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án có quyền thực hiện các quyền của mình theo thủ tục tố tụng nhưng phải tuân thủ thời hạn tố tụng theo luật định. Vì vậy, đến ngày 30/05/2013 Tòa án mới ra quyết định phân công thẩm phán và thông báo thụ lý vụ án là vi phạm thời hạn tố tụng. Quyết định giải quyết khiếu nại Số 20/2013/QĐ-TA của Tòa án ghi ngày 11/06/2013 trả lời tôi rằng “đến ngày 06/05/2013 tôi vẫn không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu” là không đúng sự thật. Theo các điều 79, 80, 81, 82, 83, 84 Bộ luật Tố tụng dân sự thìQuyết định Số 18/QĐ/2013 của SMI, hai Phiếu đề nghị thanh toán của SMI, số điện thoại và xác nhận của Công ty ô tô GM chi nhánh Hồ Chí Minh, Biên bản hòa giải tranh chấp lao động của Phòng LĐTBXH quận Bình Thạnh, Giấy phép lái xe của tôi, văn bản Chứng minh và Chứng cứ là chứng cứ. Những chứng cứ này đã được Tòa án công bố và sử dụng trong Thông báo về việc thụ lý vụ án Số 56/TB-TA ghi ngày 30/05/2013. Quyết định ra sau Thông báo nhưng lại mâu thuẫn với Thông báo? Lý do liên quan đến tên tòa án, đây càng không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp để Tòa án chậm thụ lý vụ án. Vì, (1) tôi đã nộp đơn sửa đổi ngày 12/04/2013. (2) tại Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có các biển báo rất rõ ràng “Tòa Lao động, Tòa Kinh tế, Tòa Hành chính,...”, vụ việc tôi khởi kiện là loại án lao động nên tôi ghi thẳng là Tòa án Lao động quận Bình Thạnh theo chuyên trách của Tòa án. Tôi đã không bắt lỗi Tòa án về việc tôi kiện Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (viết tắt là SMI) hay Công ty TNHH Sài Gòn đồ gổ Quốc tế, nếu bắt lỗi thì đây là hai pháp nhân khác nhau. Tên tòa án so với việc đại diện của bị đơn không có ủy quyền hợp pháp nhưng Tòa án vẫn tiến hành hòa giải có mặt cả bị đơn và nguyên đơn là có công bằng, khách quan và đúng luật? Các vị lách luật bằng việc cho bị đơn bổ sung quyết định ủy quyền sau, nhưng các vị có phải là đảng viên, các vị có thực sự làm việc vì sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, các vị có dám trả lời trung thực trước các cấp ủy đảng, trước nhân dân qua báo chí về việc làm này và các vị có cảm thấy không hổ thẹn với lương tâm mình? 2. Về thu thập chứng cứ Tại thời điểm nộp đơn khởi kiện, tôi chỉ có Quyết định Số 18/QĐ/2013 của SMI là chứng cứ cho việc khởi kiện. Đến ngày 06/05/2013, tôi đã nộp thêm các chứng cứ khác là hai phiếu đề nghị thanh toán của SMI, xác nhận của Công ty ô tô GM chi nhánh Hồ Chí Minh, Biên bản hòa giải tranh chấp lao động của Phòng LĐTBXH quận Bình Thạnh, Chứng minh và Chứng cứ, Giấy phép lái xe của tôi. Ngày 18/07/2013, tôi yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ tại Tòa nhưng Tòa án từ chối. Ngày 15/08/2013, tôi nộp bổ sung các chứng cứ là xác nhận của bà Vũ Thị Phương và ông Đoàn Văn Túy, Biên bản đối thoại tại Tòa, đĩa dữ liệu và văn bản tường thuật ghi âm, ghi hình. Việc thu thập chứng cứ do đương sự tự tiến hành hoặc Tòa án, Viện kiểm sát thực hiện theo các điều 6, 81, 82, 85, 86, 87, 88, 93, 94. Việc cung cấp chứng cứ do đương sự, cá nhân, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo các điều 6, 7, 58, 65, 79, 84 Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong văn bản Thực hiện Thông báo số 07/TB-TAQBTh nộp ngày 12/04/2013, Chứng minh và Chứng cứ nộp ngày 06/05/2013, tôi đã yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ mà tự tôi không thể thực hiện được. 3. Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Tòa án đưa ra lý do “hợp đồng thử việc không thể hiện có thời hạn (3 tháng) và tôi không cung cấp chứng cứ cho Tòa án” để không ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là sai sự thật và trái luật như đã trình bày trong văn bản Phúc đáp Công văn Số 346/TAQBTh và trình bày tại 1 và 2 trên. 4. Kết luận Cả Chánh án, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân quận Bình Thạnh đều là người trực tiếp tham gia giải quyết vụ án nhưng cả hai vị đều thực hiện trái Điều 3 Bộ luật Tố tụng dân sự. Thứ nhất, việc Tòa án chậm thụ lý vụ án là trái luật, tôi nhận định do ông Khả cố ý “ngâm” hồ sơ, không chuyển hồ sơ cho người có trách nhiệm giải quyết đúng theo quy định. Nguyên nhân chậm thụ lý vụ án chính xác là như thế nào thì Tòa án cần xác minh làm rõ để xử lý người liên quan phải chịu trách nhiệm. Nếu lỗi không do ông Khả thì là ai? Phải có người chịu trách nhiệm về việc này. Thứ hai, đại diện của bị đơn không có ủy quyền hợp pháp nhưng Tòa án vẫn tiến hành hòa giải có mặt cả bị đơn và nguyên đơn là vi phạm thủ tục tố tụng. Điều 57 (khoản 7), 73 (khoản 3), 74 (khoản 2). Thứ ba, Tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời với các lý do (1) liên quan đến “hợp đồng miệng và thời hạn hợp đồng” là không đúng sự thật, không khách quan và trái luật vì Hợp đồng lao động đã được tôi chứng minh tại “nguồn chứng cứ 5, Mục III - Chứng cứ trong văn bản Chứng minh và Chứng cứ”, (2) “tôi không cung cấp chứng cứ cho Tòa án” là sai sự thật vì tôi đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho Tòa án như trình bày tại 1 và 2 trên. Thứ tư, đương sự cung cấp chứng cứ và tự chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Thu thập chứng cứ là do đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát thực hiện nhưng Tòa án từ chối thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự trong khi nhân chứng có mặt tại Tòa (phiên hòa giải ngày 18/07/2013) là trái pháp luật, các điều 6, 41 (khoản 8), 58 (điểm c, l khoản 2), 85 (khoản 2), 87 Bộ luật Tố tụng dân sự. Thứ năm, trong hồ sơ vụ án, không có tài liệu, chứng cứ nào là tài liệu, chứng cứ nội bộ. Chỉ có tài liệu, chứng cứ liên quan đến bí mật Nhà nước. Quyết định số 56/QĐ-PCTP-LĐ ngày 30/05/2013 không phải là tài liệu, chứng cứ bí mật Nhà nước. Tòa án từ chối và trì hoãn cho đương sự sao chụp tài liệu, chứng cứ với lý do “Quyết định số 56/QĐ-PCTP-LĐ là tài liệu nội bộ” và “Bị đơn chưa có/bổ-sung Giấy ủy quyền” là trái luật, Điều 7 và điểm d khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng dân sự.
MH70 | ||||||
|