HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
| ||||||
QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI SỐ 474/TATP-TLĐ Đơn khiếu nại ngày 3/9/2014 sửa đổi, bổ sung Đơn khiếu nại ngày 7/7/2014 và ngày 15/08/2014. Khiếu nại: “Quyết định và hành vi hành chính của cơ quan, người có thẩm quyền”. I. NỘI DUNG KHIẾU NẠI 1. Căn cứ Quyết định số 474/TATP-TLĐ ngày 25/8/2014 (viết tắt là QĐGQKN số 474): a. Qua thực tế giải quyết vụ án, Tòa án không có cơ sở bác bỏ và đã không bác bỏ được 6 lý do thể hiện nhu cầu cấp bách cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thể hiện trong Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 4/9/2013 và Đơn khiếu nại ngày 18/7/2014, Tòa án cũng không chứng minh được việc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là có cơ sở pháp lý. Công ty Quốc tế thể hiện thái độ bất chấp pháp luật bằng việc không tham gia tố tụng sơ thẩm và phúc thẩm là cơ sở chứng minh việc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể gây thiệt hại không thể khắc phục. b. Theo quy định tại khoản 2 Điều 257 Bộ luật tố tụng dân sự thì không có khái niệm thẩm phán phụ. Theo quy định tại Điều 16 Bộ luật tố tụng dân sự thì những người tiến hành tố tụng chỉ bị thay đổi nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Vì vậy, QĐGQKN số 474 thể hiện các thẩm phán phụ có thể bị thay đổi do nhu cầu công việc là thay đổi theo ý chí chủ quan của Tòa án và không có cơ sở pháp luật. c. Biên bản nghị quyết không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (viết tắt là Biên bản nghị quyết) và Biên bản nghị án sơ thẩm là hai văn bản hoàn toàn khác nhau. Đương nhiên, hai biên bản này không phải là chứng cứ chứng minh “3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế là lỗi của ông thành; Việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thỏa thuận là lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng theo hình thức sa thải; Tranh chấp lao động là tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc”. Tuy nhiên, hai biên bản này là chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng của người tiến hành tố tụng. Ông Thành yêu cầu Tòa án cung cấp Biên bản nghị quyết không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án lại xuyên tạc thành Biên bản nghị án. Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 và điểm đ khoản 2 Điều 14 Luật khiếu nại thì ông Thành có quyền yêu cầu Tòa án và Tòa án có nghĩa vụ cung cấp cho ông Thành hai biên bản này. Biên bản nghị án sơ thẩm và Bản án sơ thẩm cùng ngày 4/9/2013 có nội dung hoàn toàn giống nhau và chỉ khác nhau về hình thức thể hiện ở tên văn bản và thẩm quyền ký văn bản của người tiến hành tố tụng. Nội dung của hai văn bản chỉ thể hiện “Tòa án sơ thẩm bất chấp pháp luật không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Thành” mà không thể hiện “Tòa án sơ thẩm có cơ sở không chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp của ông Thành”. Ông Thành vẫn chưa nhận được văn bản trả lời của HĐXX sơ thẩm về lý do không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, QĐGQKN số 474 cũng không thể hiện lý do không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của HĐXX sơ thẩm là gì. Xét thấy, theo Điều 81, khoản 1 Điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 74, khoản 1 Điều 75 Luật tố tụng hành chính thì Biên bản nghị án và Biên bản nghị quyết không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là chứng cứ và nguồn chứng cứ. Tuy nhiên, QĐGQKN số 474 thể hiện Biên bản nghị án không phải là chứng cứ và nguồn chứng cứ mâu thuẫn với việc Tòa án sử dụng Biên bản nghị án làm cơ sở cho rằng “Tại Biên bản nghị án ngày 04/09/2013, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh đã thể hiện yêu cầu của ông không có cơ sở để xem xét và chấp nhận” và quyết định không chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của ông Thành. Luận điệu phản khoa học và trái pháp luật của Tòa án thể hiện sự bao che quá thô thiển và lộ liễu của cấp trên đối với cấp dưới và của đồng chí đối với đồng nghiệp, khuyến khích các sai phạm tiềm ẩn của người tiến hành tố tụng trỗi dậy, phát triển nhanh và bền vững. Ông Thành đã chứng minh “Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Thành là không có cơ sở và trái pháp luật”. Tuy nhiên, Tòa án phúc thẩm vẫn phớt lờ và sử dụng luận điệu gian lận từ việc “Tòa án sơ thẩm bất chấp pháp luật không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Thành” thành việc “Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp của ông Thành” thể hiện quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành có nguy cơ tiếp tục bị xâm phạm đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, Tòa án đã sử dụng luận điệu mâu thuẫn về chứng cứ và nguồn chứng cứ và thủ đoạn gian lận nội dung Biên bản nghị án sơ thẩm ngày 4/9/2013, xuyên tạc yêu cầu của ông Thành để không cung cấp chứng cứ cho ông Thành nhưng Tòa án lại sử dụng Biên bản nghị án làm chứng cứ bao che và bảo vệ quyết định trái pháp luật của Tòa án. Biên bản nghị quyết và Biên bản nghị án là tài liệu mà ông Thành sẽ sử dụng để tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, việc Tòa án không cung cấp cho ông Thành hai biên bản này là trái luật và xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành. d. Lý do không ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án các cấp thể hiện khác nhau, mỗi lần ra văn bản bản lại có một lý do mới chứ không lặp lại lý do cũ. Các lý do này chứng minh ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng thể hiện khác nhau và mỗi lúc mỗi khác chứ không thống nhất theo quy định của pháp luật. Quyết định “1/ Không chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời… và 2/ Quyết định này là quyết định giải quyết cuối cùng” là quyết định theo ý chí chủ quan của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hoặc Phó Chánh án Nguyễn Văn Châu. - Không chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời… theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền thể hiện: Sự sống chết của ông Thành thì mặc kệ cho ông Thành chết đi. Quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành cứ để Quốc hội quy định theo hình thức. Pháp luật không bằng cơ chế. Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? - QĐGQKN số 474 là quyết định lần đầu giải quyết khiếu nại về việc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nội dung “Quyết định này là quyết định giải quyết cuối cùng” thể hiện sai trái điểm k khoản 2 Điều 31 Luật khiếu nại và xâm phạm đến quyền của ông Thành theo quy định tại điểm k khoản 1 Điều 12 Luật khiếu nại, Điều 24, Điều 58, Điều 59 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26, khoản 1 Điều 50, khoản 15 Điều 49 Luật tố tụng hành chính. Vì vậy, QĐGQKN số 474 là quyết định giải quyết khiếu nại trái pháp luật. 2. Căn cứ Phiên tòa phúc thẩm ngày 23/7/2014: a. Thư ký phiên tòa phúc thẩm Phạm Thị Nguyên báo cáo đại diện hợp pháp của Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế là bà Hồ Thị Bảo Châu vắng mặt nhưng Tòa án không cung cấp cho ông Thành chứng cứ chứng minh bà Châu là đại diện hợp pháp của Bị đơn. b. Hội đồng xét xử phúc thẩm theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2106/2014/QĐPT-LĐ ngày 7/7/2014 không ký Cam kết tuân thủ và chịu trách nhiệm theo cam kết và theo pháp luật trong khi Cam kết 1 thể hiện rõ “Cam kết chỉ tiến hành tố tụng nếu đảm bảo xét xử vô tư, khách quan, công bằng, chính xác và đúng pháp luật”. Hội đồng xét xử biết hỏi ông Thành căn cứ vào điều khoản của văn bản pháp luật nào để đưa ra yêu cầu nhưng những người tiến hành tố tụng thông đồng với nhau không ký cam kết mà không đưa ra được cơ sở pháp lý để bác bỏ yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành. Việc Hội đồng xét xử không ký cam kết theo yêu cầu của ông Thành và Biên bản hoãn phiên tòa lao động phúc thẩm ngày 23/7/2014 không thể hiện đầy đủ nội dung phiên tòa, Thư ký Tòa án phải mất ba lần soạn thảo và Thẩm phán Trần Xuân Thủy cũng phải mất ba lần ký đi ký lại Biên bản hoãn phiên tòa là chứng cứ chứng minh yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng của ông Thành tại Phiên tòa ngày 23/7/2014 là có cơ sở. Người tiến hành tố tụng không ký cam kết theo yêu cầu của ông Thành thể hiện người tiến hành tố tụng bất chấp pháp luật không tôn trọng ông Thành và không chịu sự giám sát của ông Thành nhân danh Nhân dân theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 15 Luật tố tụng hành chính và Điều 4 Hiến pháp, không bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng theo quy định tại Điều 16 Bộ luật tố tụng dân sự, né tránh trách nhiệm quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 13 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 2 và khoản 4 Điều 15 Luật tố tụng hành chính. c. Lý do hoãn Phiên tòa phúc thẩm ngày 23/7/2014 theo thông báo bằng miệng là do ông Thành có Đơn kháng cáo sửa đổi, bổ sung ngày 18/7/2014 nên Hội đồng xét xử cần có thời gian xem xét đơn kháng cáo sửa đổi, bổ sung của ông Thành nhưng theo Quyết định hoãn phiên tòa lao động phúc thẩm số 208/2014/QĐ-PT ngày 23/7/2014 lại thể hiện là do ông Thành có đơn khiếu nại và hội đồng xét xử cần có thời gian xem xét đơn khiếu nại của ông Thành. 3. Căn cứ điểm a khoản 2 của Nội dung khiếu nại này: Thông báo sửa chữa, bổ sung số 483/2014/TB-TA ngày 18/07/2014, Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2106/2014/QĐPT-LĐ ngày 07/07/2014, Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm các số 707/2014/QĐPT-LĐ ngày 10/03/2014, số 189/2014/QĐPT-LĐ ngày 21/01/2014, số 106/2014/QĐ-PT ngày 28/3/2014 và số 82/2014/QĐ-PT của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là chứng cứ chứng minh hồ sơ vụ án đã có thêm ít nhất một tài liệu là quyết định phân công Kiểm sát viên tham gia tiến hành tố tụng phúc thẩm mà ông Thành không được biết. 4. Kết luận: Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được cụ thể hóa bằng các văn bản luật và dưới luật. Mọi việc làm sai trái và hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền, đặc biệt là đảng viên, đều là việc làm trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và trái pháp luật. Không giải quyết khiếu nại hoặc giải quyết khiếu nại không đúng pháp luật, bao che các sai phạm của người có thẩm quyền là hành vi cố ý vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng và cần phải bị xử lý kỷ luật nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. QĐGQKN số 474 thể hiện những người có thẩm quyền nói chung và Phó Chánh án Nguyễn Văn Châu nói riêng không hoàn thành nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao cho. II. YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI 1. Giữ nguyên các yêu cầu của Đơn khiếu nại ngày 18/7/2014. 2. Nhu cầu là khái niệm xuất hiện trong hoạt động kinh doanh và thương mại. Hoạt động tố tụng không phải là hoạt động kinh doanh, thương mại, Tòa án không phải là doanh nghiệp, Thẩm phán không phải là doanh nhân, Đương sự không phải là khách hàng, bản án và các quyết định của Tòa án không phải là hàng hóa. Vậy, tại sao Thẩm phán có thể bị thay đổi do nhu cầu công việc? 3. Thẩm phán phụ và việc thay đổi thẩm phán phụ do nhu cầu công việc được quy định tại điều khoản của văn bản pháp luật nào? Thẩm phán phụ có phải là Thẩm phán gian tà, suy thoái đạo đức và thoái hóa biến chất không? 4. Chánh tòa Tòa lao động Nguyễn Xuân Tùng không xem hồ sơ vụ án khi giải quyết khiếu nại trong khi chính ông Tùng cũng là người tiến hành tố tụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 707/2014/QĐPT-LĐ ngày 10/3/2014. Thư ký Tòa án trình ký văn bản nào, Thẩm phán Trần Xuân Thủy cũng ký mà không run tay. Vậy, Phó Chánh án Nguyễn Văn Châu có xem hồ sơ vụ án và đọc lướt qua QĐGQKN số 474 trước khi ký vào QĐGQKN số 474 không? 5. Cung cấp cho ông Thành: Chứng cứ chứng minh bà Hồ Thị Bảo Châu là đại diện hợp pháp của Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế; Biên bản nghị án sơ thẩm ngày 4/9/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh vì Biên bản này đã bị sửa đổi, bổ sung theo QĐGQKN số 474; Quyết định thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và các quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng; Quyết định phân công Kiểm sát viên tham gia tiến hành tố tụng phúc thẩm; Văn bản cam kết tuân thủ và chịu trách nhiệm theo cam kết và theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng theo yêu cầu của ông Thành; Tài liệu khác mà ông Thành chưa được biết. 6. Tại sao tại Phiên tòa lao động phúc thẩm ngày 23/9/2014 Hội đồng xét xử mới biết ông Thành đã nộp Đơn kháng cáo sửa đổi, bổ sung và Đơn khiếu nại sửa đổi, bổ sung ngày 18/7/2014? Ai là người phải chịu trách nhiệm về việc Hội đồng xét xử không biết hai đơn mà ông Thành đã nộp cho Tòa án ngày 18/7/2014? 7. Tại sao Biên bản nghị án không phải là chứng cứ và nguồn chứng cứ theo quy định tại Điều 80, 81 Bộ luật tố tụng dân sự? Tại sao Biên bản nghị án là cơ sở để Tòa án quyết định không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành? Biên bản nghị án và Bản án sơ thẩm có phải là cơ sở để Tòa án bất chấp pháp luật tuyên y án sơ thẩm không chấp nhận các yêu cầu kháng cáo có căn cứ và hợp pháp của ông Thành không và tại sao? 8. Tại sao Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én mãi đến ngày 23/7/2014 mới tham gia tiến hành tố tụng? 9. Cho ông Thành xem lại toàn bộ hồ sơ vụ án trước khi mở lại phiên tòa lao động phúc thẩm. 10. Đối thoại với Chánh án Bùi Hoàng Danh và đối chất với Phó Chánh án Nguyễn Văn Châu. 11. Với tinh thần phê bình và tự phê bình, với tư cách là Lãnh đạo Tòa án, Phó Chánh án Nguyễn Văn Châu sẽ tự kiểm điểm trách nhiệm và nhận hình thức xử lý kỷ luật như thế nào để hiện thực hóa phong trào học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh? 12. Chánh án giải quyết khiếu nại đúng quy định của pháp luật.
| ||||||
|