HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
Thương Hiệu Doanh Nghiệp là cái tên dễ nhớ, gần gũi và Thương Hiệu là mục tiêu chung của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi hội tụ Thành công - Thịnh vượng - Phồn vinh của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi tôn vinh và khẳng định đẳng cấp thương hiệu của doanh nghiệp thương hiệu.

HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG

Về việc: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành

Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (Viết tắt là Công ty Quốc tế hoặc SMI)

Cơ quan hòa giải lao động: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Tòa án sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Tòa án phúc thẩm: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn; Tranh chấp về hành chính giữa Nguyên đơn và Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Chứng minh và chứng cứ: HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng được lỗi của ông Thành thì chỉ cần Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI cũng đủ chứng cứ chứng minh SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt nội dung án oan sai: Ông Thành vẫn  hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm chứng minh Tòa án hai cấp đã không căn cứ chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành mà chỉ căn cứ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty Quốc tế để giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

- Hồ sơ vụ án lao động sơ thẩm số 56/2013/TLLĐ-ST ngày 30/5/2013 và vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có tài liệu không hợp pháp nhưng được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án; có tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp nhưng bị cố ý bỏ qua theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng; không có tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành vì Tòa án hai cấp không thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ và Tòa án phúc thẩm không lập biên nhận tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành.

- Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 là các bản án được xét xử trái pháp luật và theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.


Án oan sai: Ai làm gì được ta?

Tòa án lạm quyền tùy tiện thay đổi thẩm phán phụ nhưng không tuân thủ pháp luật thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự là không công bằng.

Cản trở việc khởi kiện bằng yêu cầu Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng miệng. Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là chứng cứ chứng minh hợp đồng miệng được Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án ngay từ khi nộp đơn khởi kiện nhưng Tòa án lại trả lời khiếu nại rằng Nguyên đơn không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu... chỉ là hai trong số nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền.

Lạm quyền tiếp tay cho lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động của Công ty Quốc tế nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan hòa giải lao động lẩn trốn yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những cán bộ có sai phạm và khai trừ đảng đối với những đảng viên có sai phạm.

Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? Ai? Không ai? Vậy thì ta cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật nghiêm trọng, thản nhiên ra quyết định trái pháp luật rất nghiêm trọng và ngang nhiên ban hành bản án trái pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án oan sai này là minh chứng cho tuyên bố bất chấp pháp luật của ta.

  
Lý do không được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp


Căn cứ Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS thì
ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi và
Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18 là chứng cứ chứng minh SMI đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.


“Xe Captival 52LD-4812 máy dầu bị đổ nhầm xăng vẫn chạy bình thường”


Chữ ký trong Quyết định số 18 và Giấy ủy quyền khác nhau


Lốp cũ xe CAPTIVAL của Nhật (MADE IN JAPAN)


Lốp mới xe CAPTIVAL của Thái Lan (THAILAND)


Nhân chứng xác nhận báo giá của mình

(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật

THÔNG TIN MỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUẢNG CÁO - LIÊN KẾT
Võ Thuật


QUẢNG CÁO

0912 82 2628

ĐƠN KHIẾU NẠI NGÀY 7/7/2014

Khiếu nại Quyết định và hành vi hành chính của cơ quan, người có thẩm quyền

I. NỘI DUNG KHIẾU NẠI

- Căn cứ các đơn khiếu nại ngày 26/03/2014 và ngày 14/04/2014 của ông Nguyễn Đức Thành;
- Căn cứ Văn bản số 678/TATP-TLĐ ngày 02/04/2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt là Văn bản số 678);
- Căn cứ các tài liệu, chứng cứ và chứng minh trong hồ sơ vụ án số 91/2013/TLPT-LĐ ngày 09/12/2013;

Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý sai việc khởi kiện của ông Thành, trả lời khiếu nại không rõ ràng, trả lời như không trả lời, không giải quyết đúng yêu cầu giải quyết khiếu nại của ông Thành và không tuân thủ pháp luật trong quá trình tiến hành tố tụng phúc thẩm.

Căn cứ ngày ông Thành nộp đơn khiếu nại là ngày 26/03/2014 và căn cứ khoản 3 Điều 6 và Điều 28 của Luật khiếu nại. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã vi phạm thời hạn giải quyết khiếu nại vì không có quyết định giải quyết khiếu nại trước ngày 26/04/2014 là ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại.

Ông Thành đã cho đáp án trả lời các yêu cầu giải quyết khiếu nại ngay trong đơn khiếu nại và Hội đồng xét xử phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa phúc thẩm ngày 26/02/2014 nên việc giải quyết khiếu nại không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp để Tòa án vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Căn cứ thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì Tòa án đã vi phạm thời hạn phải mở phiên tòa trong thời hạn luật định. Lợi dụng việc giải quyết khiếu nại để kéo dài vô thời hạn ngày mở lại phiên tòa phúc thẩm là hành vi lạm quyền, ngang ngược, bất chấp pháp luật như bậc thầy Trung Quốc đang thể hiện ở Hoàng Sa. Hành vi này là chứng cứ chứng minh Tòa án quản lý công việc tùy tiện, không có tổ chức, không khoa học, không tuân thủ pháp luật, hay đó chỉ là hành vi vô tổ chức, vô kỷ luật, vô trách nhiệm, vô văn hóa, 0 văn minh, suy thoái đạo đức và coi thường pháp luật của một bộ phận không nhỏ người có thẩm quyền trực tiếp tiến hành tố tụng.

Chánh tòa Tòa lao động, Thẩm phán Nguyễn Xuân Tùng là thành viên Hội đồng xét xử phúc thẩm ngày 28/03/2014 và là người trực tiếp tiếp xúc giải quyết khiếu nại ngày 29/04/2014. Nhưng tại buổi tiếp xúc giải quyết khiếu nại ông Tùng trả lời là chưa xem hồ sơ vụ án và mượn Bản án sơ thẩm của ông Thành để xem qua loa, trước đó, ông Thành phải ngồi chờ ông Tùng xem lướt qua Đơn khiếu nại. Không đọc hồ sơ mà xử án giống như câu chuyện khôi hài Câm Mù Điếc xử án. Nó phản ánh sự cẩu thả, vô trách nhiệm, máy móc, chủ quan của người có thẩm quyền. Hết thời hạn giải quyết khiếu nại ông Tùng trả lời luẩn quẩn và lẩm cẩm và không thuyết phục rằng Thẩm phán Thủy bận công việc nên chưa giải trình vụ việc nên việc giải quyết khiếu nại chưa được tiếp tục giải quyết. Căn cứ Điều 281 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án đã phải gửi cho ông Thành bản án phúc thẩm trước ngày 13/03/2014 nếu phiên tòa phúc thẩm ngày 26/02/2014 không bị hoãn. Tòa án không ra quyết định giải quyết khiếu nại trong thời hạn luật định, Văn bản số 678, Thư mời ngày 22/04/2014 và Biên bản làm việc ngày 29/04/2014, Thông báo số 91/TB-TLVA-PT ngày 09/12/2013 của Tòa án phúc phẩm là chứng cứ chứng minh Tòa án phúc thẩm cố ý thụ lý vụ án sai việc khởi kiện của ông Thành và nếu phiên tòa phúc thẩm ngày 26/02/2014 không bị hoãn thì đã có thêm bản án oan sai áp đặt cho ông Thành tìm đường giám đốc thẩm.

Ngày 29/04/2014 ông Thành nộp đơn yêu cầu thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ. Căn cứ khoản 1, 2 và 4 Điều 6 Luật khiếu nại, Điều 7 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã không thực hiện thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật.

Thư ký Trần Thị Hiển từ chối cung cấp bản chụp Biên bản nghị quyết không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng xét xử sơ thẩm mà không có văn bản của Tòa án nêu rõ lý do từ chối theo quy định tại Điều 7 Bộ luật tố tụng dân sự. Thẩm phán Trần Xuân Thủy có hành vi vi phạm khoản 1 Điều 13 Bộ luật này vì đã từ chối tiếp xúc và trả lời trực tiếp ông Thành về việc thực hiện Đơn yêu cầu thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ của ông Thành.

Ông Thành chỉ được đọc Biên bản nghị quyết nên chỉ biết lý do không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng xét xử sơ thẩm là không có cơ sở pháp lý. Hậu quả của việc Tòa án không cung cấp Biên bản nghị quyết là ông Thành không thể nhớ nội dung lý do để trình bày rõ ràng và lập luận cụ thể nội dung chứng minh theo chứng cứ là Biên bản nghị quyết.

Căn cứ Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 04/11/2013 đã thể hiện căn cứ pháp lý là khoản 1 Điều 99, khoản 4 Điều 102, khoản 1 Điều 100, khoản 2 Điều 117 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nhưng Văn bản số 678 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh lại lập luận “Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự không thể hiện có việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc phải tạm ứng tiền bồi thường cho trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn”. Như ông Thành trình bày trong Đơn khiếu nại bổ sung ngày 14/04/2014, luận điệu ngang ngược này của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là trái luật. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cố ý làm trái pháp luật.

Khi nộp đơn khởi kiện, ông Thành đã giải thích rõ hợp đồng lao động giữa ông Thành và Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc Tế được giao kết theo hình thức hợp đồng miệng. Nhưng Thông báo số 07/TB-TAQBTh ngày 11/04/2013, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh lại đưa ra yêu cầu ông Thành nộp bản sao hợp đồng lao động. Đây là yêu cầu không có cơ sở thực hiện và cũng là hành vi hành chính nhằm cản trở việc khởi kiện.

Một ngày ngay sau ngày Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ra Thông báo số 07, ngày 12/04/2013 ông Thành đã nộp văn bản thực hiện Thông báo số 07 cho Tòa án sơ thẩm, văn bản này chỉ rõ Quyết định cho nghỉ việc số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 là chứng cứ chứng minh hợp đồng lao động giữa ông Thành và Công ty Quốc Tế. Đến ngày 06/05/2013, ông Thành đã nộp bổ sung các tài liệu và chứng cứ khác. Nhưng Quyết định giải quyết khiếu nại số 20/2013/QĐ-TA ngày 11/06/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh lại thể hiện “ông Thành không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu” là không đúng sự thật. Mặt khác, Quyết định số 20 này thể hiện hồ sơ vụ án có các chứng cứ chứng minh tranh chấp là đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc. Một trong những mâu thuẫn của Quyết định này là, một mặt thể hiện ông Thành không cung cấp chứng cứ, một mặt thể hiện có chứng cứ chứng minh tranh chấp là tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc.

Quyết định số 20 cho rằng “ông Thành không cung cấp được chứng cứ thể hiện thỏa thuận giữa nguyên đơn và bị đơn về thời hạn thực hiện hợp đồng thử việc”, Văn bản số 346 cho rằng “các chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện không thể hiện hợp đồng thử việc giữa ông Thành và Công ty Quốc Tế có thời hạn”. Theo quy luật logic, nội dung này thể hiện “hợp đồng thử việc là loại hợp đồng không xác định thời hạn hoặc hợp đồng thử việc không có nội dung thử việc”. Văn bản Thực hiện Thông báo số 07 không thể hiện thời hạn hợp đồng là ba tháng. Nội dung hợp đồng lao động trong văn bản Chứng minh và chứng cứ không có nội dung việc làm thử và thời gian thử việc. Nhưng Quyết định số 20 và Văn bản số 346, một mặt cho rằng không có chứng cứ thể hiện thời hạn hợp đồng thử việc, không có chứng cứ thể hiện hợp đồng thử việc có thời hạn, một mặt áp đặt thời hạn hợp đồng thử việc là ba tháng. Mâu thuẫn của Tòa án là áp đặt hợp đồng thử việc vừa có thời hạn là ba tháng vừa có thời hạn là không xác định. Việc áp đặt này thể hiện Tòa án cố ý làm trái nguyên tắc tự do, thỏa thuận, tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Mâu thuẫn rất rõ ràng miễn chối cãi và bao biện và phản khoa học là không tồn tại hợp đồng thử việc vừa có thời hạn vừa không xác định thời hạn vì hợp đồng thử việc phải có thời gian thử việc theo luật định là không quá 60 ngày nhưng Tòa án không chỉ ra được thời hạn của hợp đồng thử việc và pháp luật quy định không được thử việc đối một số công việc như công việc lái xe.

Tòa án sử dụng luận điệu hợp đồng thử việc (ông Thành và Công ty Quốc tế không thỏa thuận thực hiện loại hợp đồng này) trái pháp luật và chứa chấp mâu thuẫn làm lý do không ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn khẩn cấp tạm thời là không có cơ sở. Do đó, Tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của ông Thành là không có căn cứ, là lạm quyền giải quyết theo ý chỉ chủ quan của người có thẩm quyền, là hành vi cố ý làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án.

Căn cứ khoản 4 Điều 171 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo là ngày 04/04/2013, chậm nhất là ngày ông Thành đã nộp văn bản Thực hiện Thông báo số 07 cho Tòa án sơ thẩm là ngày 12/04/2013. Tuy nhiên, đến ngày 30/05/2013 Tòa án sơ thẩm mới thụ lý vụ án là vi phạm tố tụng. Thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 của Bộ luật này phải được tính từ ngày thụ lý vụ án theo quy định tố tụng là ngày 04/04/2013, chậm nhất là ngày 12/04/2013. Quyết định số 20 của Tòa án sơ thẩm thể hiện thời hạn chuẩn bị xét xử tính từ ngày 30/05/2013 là thực hiện trái quy định tố tụng.

Trong hồ sơ vụ án có hai giấy ủy quyền của Công ty Quốc Tế có cùng nội dung nhưng khác nhau về hình thức là chứng cứ chứng minh bà Hồ Thị Bảo Châu không phải là người đại diện hợp pháp của Bị đơn, Biên bản hòa giải ngày 18/07/2013 của Tòa án sơ thẩm và Bản tự khai ngày 18/07/2013 của bà Châu không phải là văn bản hợp pháp. Chữ ký trong giấy ủy quyền và chữ ký trong Quyết định cho nghỉ việc số 18 của ông Tổng Giám đốc Công ty Quốc Tế thể hiện hai chữ ký khác nhau là chứng cứ chứng minh giấy ủy quyền và đơn đề nghị xét xử vắng mặt đều bị vô hiệu, Bị đơn không tham gia tố tụng sơ thẩm. Nhưng Tòa án sơ thẩm và Hội đồng xét xử sơ thẩm cố ý làm việc với đại diện bất hợp pháp của Bị đơn và sử dụng tài liệu không hợp pháp do bà Châu cung cấp và Tòa án sơ thẩm cố ý thực hiện trái pháp luật nhằm làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án. Biên bản hòa giải là chứng cứ chứng minh Tòa án không thực hiện hòa giải đúng quy định tại các Điều 10, 184, 185 và 186 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bản tự khai là chứng cứ chứng minh Tòa án đã hướng dẫn bà Châu trình bày một số nội dung làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án, Bản tự khai cũng là chứng cứ chứng minh Tòa án đã không vô tư, minh bạch trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Hành vi không công bố nội dung Bản tự khai của bà Châu, không cung cấp Bản tự khai cho ông Thành ngay sau khi kết thúc hòa giải, không cho ông Thành đối thoại với bà Châu tại buổi hòa giải, không thực hiện thu thập chứng cứ theo yêu cầu của ông Thành tại buổi hòa giải ngày 18/07/2013. Nội dung trình bày ý kiến của các đương sự trong Biên bản hòa giải ngày 18/07/2013 và Bản án sơ thẩm là chứng cứ chứng minh Thẩm phán Trần Đăng Tân đã cố ý dùng thủ đoạn bưng bít thông tin có mâu thuẫn và gian lận thông tin, làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án rất tinh vi (bài bản và chuyên nghiệp) và có nghề (làm quan), vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng.

Các hành vi vi phạm pháp luật trên của người có thẩm quyền đã được ông Thành trình bày trong văn bản Tranh luận sơ thẩm, Đơn khởi kiện bổ sung nhưng Bản án sơ thẩm không báo cáo, giải trình về việc xử lý đối với những người có thẩm quyền đã có các hành vi vi phạm pháp luật.

Vụ án này có hai loại quan hệ tranh chấp. Thứ nhất là quan hệ tranh chấp về lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động. Thứ hai là quan hệ tranh chấp về hành chính giữa ông Thành và Tòa án. Nhưng Tòa án không giải quyết quan hệ tranh chấp thứ hai và giải quyết quan hệ tranh chấp thứ nhất không “vô tư, khách quan, công bằng, kịp thời, chính xác và đúng pháp luật”.

Ba lỗi trong quyết định cho nghỉ việc là tranh chấp lao động nhưng Tòa án lại bịa đặt ra tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc để đánh lừa đọc giả cẩu thả, cơ hội, vô cảm, vô trách nhiệm, vô liêm sỉ, năng lực yếu kém, nhằm dối trên, lừa dưới, qua mặt người “thẩm quyền, trách nhiệm, liêm sỉ, tâm trong, trí sáng, bản lĩnh vững vàng, lập trường kiên định và tinh thần tỉnh táo”.

Các hành vi vi phạm pháp luật khác của Tòa án sơ thẩm đã bị ông Thành tố cáo trong Đơn kháng cáo ngày 19/09/2013, Đơn ngày 16/04/2014 yêu cầu Tòa án sơ thẩm cung cấp tài liệu, chứng cứ. Nhưng Bản án sơ thẩm không thể hiện nội dung xử lý các sai phạm của người có thẩm quyền.

Kết luận: Giải quyết khiếu kiện theo ý chí chủ quan của cơ quan, người có thẩm quyền là không hợp lòng dân. Những người có thẩm quyền luôn khẳng định giải quyết khiếu kiện theo pháp luật, nhưng chỉ riêng việc cố ý vi phạm thời hạn luật định cũng đủ chứng cứ chứng minh lời nói mị dân mâu thuẫn với việc làm. Những người bị khiếu nại đã có quyết định và hành vi vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng, vi phạm nguyên tắc đảm bảo sự vô tư, khách quan, công bằng, kịp thời, chính xác và đúng pháp luật khi tiến hành tố tụng, giải quyết khiếu nại như trình bày trên và trong hồ sơ vụ án.

II. YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

Không tin vào Đảng, Nhà nước, các vị lãnh đạo có uy tín, có liêm sỉ, có tâm, vô tư, có tầm, công minh, có trách nhiệm với Dân với Nước thì ông Thành đã không đi khiếu kiện. Nhưng một bộ phận không nhỏ những người có thẩm quyền cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật thay vì bảo vệ pháp luật, lạm quyền và bất chấp pháp luật xử lý khiếu kiện theo ý chí chủ quan thay vì giải quyết thấu tình và đạt lý, nhẫn tâm dẫm đạp và cướp giết niềm tin của người dân đặc biệt là người dân yếu thế như ông Thành thay vì hành xử văn minh và đạo đức để làm gia tăng tín nhiệm và niềm tin. Mất tín nhiệm thì hình thức kỷ luật nặng cũng chỉ tạm thời mất chức, mất việc. Mất niềm tin là mất tất cả!

Chánh án với tư cách là lãnh đạo Tòa án và đại biểu Quốc hội Khóa XII thể hiện việc làm có trách nhiệm thông qua việc giải quyết đúng pháp luật các yêu cầu giải quyết khiếu nại sau:

1. Giải quyết các yêu cầu giải quyết khiếu nại trong đơn khiếu nại ngày 26/03/2014 và bổ sung ngày 14/04/2014. Giải quyết đơn yêu cầu ngày 29/04/2014 về thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ. Đôn đốc, kiểm tra và giám sát việc thực hiện tố tụng phúc thẩm vụ án này đúng pháp luật.

2.  Hủy các tài liệu có nội dung mâu thuẫn, gây tranh cãi và trái pháp luật sau:

- Văn bản số 678/TATP-TLĐ ngày 02/04/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

- Văn bản số 346/TAQBTh ngày 03/06/2013, Quyết định giải quyết khiếu nại số 20/2013/QĐ-TA ngày 11/06/2013, Biên bản hòa giải ngày 18/07/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh.

3. Tuyên bố 2 giấy ủy quyền ngày 02/07/2013 của Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế, Bản tự khai ngày 18/07/2013 và Đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 23/08/2013 của bà Hồ Thị Bảo Châu không phải là các tài liệu hợp lệ.

4. Thực hiện khoản 2 Điều 30 và khoản 2 Điều 41 Pháp lệnh số 02/2002/PL-UBTVQH11 ngày 04/10/2002. Cách chức, bãi nhiệm chức danh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đối với:

- Ông Phạm Doãn Hiếu    - Thẩm phán TAND quận Bình Thạnh;

Lý do: Là Chánh án nhưng không ký vào Quyết định phân công giải quyết vụ việc dân sự số 56/QĐ-PCTP-LĐ ngày 30/05/2013. Ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 20/2013/QĐ-TA ngày 11/06/2013 có nội dung mâu thuẫn, gây tranh cãi và trái pháp luật.

- Ông Trần Đăng Tân      - Thẩm phán TAND quận Bình Thạnh;

Lý do: Là Thẩm phán nhưng lại thực hiện dễ dàng và trót lọt hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Nhưng không biết nhận lỗi. Vi phạm tố tụng vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua.

- Bà Lê Thị Hoài Yến       - Thẩm phán TAND quận Bình Thạnh;

Lý do: Là Thẩm phán nhưng lại cố ý cản trở việc khởi kiện bằng việc yêu cầu đương sự cung cấp bản sao hợp đồng lao động miệng. Yêu cầu không thể thực hiện nhưng Tòa án sơ thẩm vẫn thụ lý vụ án.

- Ông Mã Văn Trọng       - Hội thẩm nhân dân TAND quận Bình Thạnh;

Lý do: Là Hội thẩm nhân dân nhưng lại tham gia cho đủ số lượng thành viên gia Hội đồng xét xử sơ thẩm, nhưng xét xử độc lập. Biên bản nghị quyết không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và Bản án sơ thẩm là chứng cứ chứng minh ông Trọng không tuân thủ pháp luật khi xét xử.

- Bà Bùi Thị Cẩm Vân     - Hội thẩm nhân dân TAND quận Bình Thạnh;

Lý do: Là Hội thẩm nhân dân nhưng lại đồng lòng, đồng tình, đồng thuận, đồng chí, đồng minh, đồng đội, đồng phòng, đồng phạm với ông Trọng và ông Tân.

- Bà Trần Xuân Thủy      - Thẩm phán TAND Thành phố Hồ Chí Minh;

Lý do: Là Thẩm phán nhưng lại ban hành Văn bản số 678 có nội dung chơi chữ, mập mờ, lập lờ,  úp mở, mâu thuẫn, gian lận, gây tranh cãi và trái pháp luật ngay cả khi phiên tòa phúc thẩm ngày 26/02/2014 đã bị hoãn. Là Thẩm phán giải quyết vụ án nhưng lại từ chối tiếp xúc đương sự.

- … Trịnh Ngọc Thúy      - Thẩm phán Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh;

Lý do: Là Thẩm phán nhưng lại thụ lý sai việc khởi kiện của ông Thành.

5.  Ngày 19/09/2013 ông Thành nộp đơn kháng cáo cho Tòa án phúc thẩm qua đường bưu điện, ngày 23/09/2013 Tòa án đã nhận được đơn. Nhưng ngày 12/11/2013 Tòa án phúc thẩm mới chuyển đơn cho Tòa án sơ thẩm và ngày 09/12/2014 mới thụ lý vụ án. Chánh án giải thích thế nào về quy trình tiếp nhận và xử lý đơn của công dân và trách nhiệm của những người liên quan?

6.  Thực hiện khoản 2, 13 và 14 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 3 Điều 46, khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48, khoản 1 Điều 49, khoản 1 Điều 51 Bộ luật tố tụng dân sự. Thay đổi người tiến hành tố tụng có tên sau đây:

Trần Xuân Thủy                         - Thẩm phán TAND Thành phố Hồ Chí Minh;

Ông Nguyễn Xuân Tùng      - Thẩm phán TAND Thành phố Hồ Chí Minh;

Trần Thị Hiển                  - Thư ký TAND Thành phố Hồ Chí Minh;

Lê Thị Én                                     - Kiểm sát viên VKSND Thành phố Hồ Chí Minh.

7.  Căn cứ Điều 257 Bộ luật tố tụng dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2011, điểm b và c Điều 40, Điều 46, Điều 47, Điều 53 Bộ luật tố tụng dân sự thì Chánh án là người có thẩm quyền thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 Thẩm phán và chỉ thay đổi Thẩm trong những trường hợp pháp luật có quy định. Nhưng có 5 Thẩm phán tham gia Hội đồng xét xử phúc thẩm và việc thay đổi Thẩm phán Nguyễn Thành Vinh không rõ thuộc trường hợp nào. Chánh án giải thích thế nào về việc vi phạm tố tụng này?

8.  Phòng Tiếp công dân của Tòa án ở đâu? Tại sao Bảo vệ cửa quyền cản trở ông Thành liên hệ với Phòng Tổ chức Hành chính để tố cáo tệ nạn quan liêu và giải quyết kịp thời các sai phạm của cán bộ Tòa án đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành?

9. Tuyên bố: Nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” và nội dung “việc làm thử, thời gian thử việc” phát sinh theo nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” trong hồ sơ vụ án là nội dung vô hiệu. Nhưng Tòa án sơ thẩm không tuyên bố “nội dung việc làm thử và thời gian thử việc của hợp đồng lao động giữa ông Thành và Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế giao kết bằng miệng ngày 26/02/2013 là nội dung vô hiệu” theo quy định tại khoản 4 Điều 166 Bộ luật lao động.

10. Biên bản làm việc ngày 29/04/2014 giải thích Văn bản số 678 là trả lời của Tòa án về đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của ông Thành. Vậy:

- Tại sao Văn bản số 678 không ban hành trong thời hạn ba ngày kể từ ngày 04/11/2013 (là ngày nhận đơn) theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật tố tụng dân sự, hoặc ngày 09/12/2013 (là ngày thụ lý vụ án phúc thẩm) theo lý do đùn đẩy và né tránh trách nhiệm của Văn bản này?

- Tại sao Chánh án không có quyết định giải quyết khiếu nại trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày 14/04/2014 (là ngày ông Thành nộp và Tòa án nhận đơn khiếu nại bổ sung) theo quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng dân sự?

11. Tòa án phúc thẩm không ra quyết định giải quyết đơn khiếu nại của ông Thành trong thời hạn luật định có phải là hành vi vi phạm pháp luật không? Tại sao?

12. Với tinh thần phê bình và tự phê bình, học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Chánh án xử lý, áp dụng hình thức kỷ luật như thế nào đối với những người có thẩm quyền có hành vi vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 2 Điều 13 BLTTDS, Điều 19 Luật khiếu nại và các văn bản pháp luật khác mà ông Thành chưa biết rồi sẽ biết nhưng Chánh án không thể không biết?

13. Thẩm phán Nguyễn Thành Vinh và Thẩm phán Nguyễn Văn Bình đã đọc hồ sơ vụ án chưa?

14. Chánh án đọc kỹ đơn, xem kỹ hồ sơ vụ án và giám sát tố tụng, giải quyết khiếu nại đúng quy định. Chân thành cám ơn và trân trọng kính chào!

MH75

CÔNG TY TNHH MTV THƯƠNG HIỆU VẬN TẢI BA THÀNH
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.6899.6850 & 08.6899.6846 - Hotline: 0912 82 2628
Email: info@thuonghieudoanhnghiep.vn