HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
Thương Hiệu Doanh Nghiệp là cái tên dễ nhớ, gần gũi và Thương Hiệu là mục tiêu chung của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi hội tụ Thành công - Thịnh vượng - Phồn vinh của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi tôn vinh và khẳng định đẳng cấp thương hiệu của doanh nghiệp thương hiệu.

HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG

Về việc: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành

Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (Viết tắt là Công ty Quốc tế hoặc SMI)

Cơ quan hòa giải lao động: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Tòa án sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Tòa án phúc thẩm: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn; Tranh chấp về hành chính giữa Nguyên đơn và Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Chứng minh và chứng cứ: HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng được lỗi của ông Thành thì chỉ cần Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI cũng đủ chứng cứ chứng minh SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt nội dung án oan sai: Ông Thành vẫn  hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm chứng minh Tòa án hai cấp đã không căn cứ chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành mà chỉ căn cứ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty Quốc tế để giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

- Hồ sơ vụ án lao động sơ thẩm số 56/2013/TLLĐ-ST ngày 30/5/2013 và vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có tài liệu không hợp pháp nhưng được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án; có tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp nhưng bị cố ý bỏ qua theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng; không có tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành vì Tòa án hai cấp không thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ và Tòa án phúc thẩm không lập biên nhận tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành.

- Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 là các bản án được xét xử trái pháp luật và theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.


Án oan sai: Ai làm gì được ta?

Tòa án lạm quyền tùy tiện thay đổi thẩm phán phụ nhưng không tuân thủ pháp luật thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự là không công bằng.

Cản trở việc khởi kiện bằng yêu cầu Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng miệng. Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là chứng cứ chứng minh hợp đồng miệng được Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án ngay từ khi nộp đơn khởi kiện nhưng Tòa án lại trả lời khiếu nại rằng Nguyên đơn không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu... chỉ là hai trong số nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền.

Lạm quyền tiếp tay cho lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động của Công ty Quốc tế nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan hòa giải lao động lẩn trốn yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những cán bộ có sai phạm và khai trừ đảng đối với những đảng viên có sai phạm.

Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? Ai? Không ai? Vậy thì ta cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật nghiêm trọng, thản nhiên ra quyết định trái pháp luật rất nghiêm trọng và ngang nhiên ban hành bản án trái pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án oan sai này là minh chứng cho tuyên bố bất chấp pháp luật của ta.

  
Lý do không được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp


Căn cứ Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS thì
ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi và
Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18 là chứng cứ chứng minh SMI đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.


“Xe Captival 52LD-4812 máy dầu bị đổ nhầm xăng vẫn chạy bình thường”


Chữ ký trong Quyết định số 18 và Giấy ủy quyền khác nhau


Lốp cũ xe CAPTIVAL của Nhật (MADE IN JAPAN)


Lốp mới xe CAPTIVAL của Thái Lan (THAILAND)


Nhân chứng xác nhận báo giá của mình

(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật

THÔNG TIN MỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUẢNG CÁO - LIÊN KẾT
Võ Thuật


QUẢNG CÁO

0912 82 2628

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---o0o---

Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 07 năm 2017

ĐƠN ĐỀ NGHỊ
Xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
đối với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014
của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
(Sửa đổi, bổ sung)

Kính gửi: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

Người đề nghị: Ông Nguyễn Đức Thành.      
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Phường 3, Quận Tân Bình.                                           
Là: Nguyên đơn trong vụ án lao động về “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.

Đơn đề nghị ngày 17 tháng 12 năm 2014 được sửa đổi, bổ sung như sau:

Đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

LÝ DO ĐỀ NGHỊ

1. Không căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ sau đây mà không rõ lý do:

1a) Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/04/2013 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh là chứng cứ chứng minh “Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (S.M.I) không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 là lỗi của ông Thành” thìđương nhiên lý do cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải là lý do vô căn cứ và trái pháp luật (trái Điều 87 của Bộ luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2007).

1b) Công văn số 311/LĐTBXH ngày 15/03/2017 là chứng cứ bổ sung bác bỏ 3 lỗi “1. Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu; 2. Nhưng không biết nhận lỗi; 3. Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua (Ông Thành báo giá 5.900.000 đồng, ông chủ mua giá 3.520.000 đồng)”. Công văn này là chứng cứ chứng minh Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh không còn căn cứ Điều 32 của Bộ luật lao động để ban hành công văn này.

1c) Pháp luật không quy định “việc làm lái xe là nhận lỗi” và hai bên không thỏa thuận việc ông Thành phải làm là nhận lỗi thì lỗi “Nhưng không biết nhận lỗi” đương nhiên bị bác bỏ.

1d) Tài liệu 405 câu hỏi luật giao thông đường bộ của Bộ Giao thông Vận tải mà ông Thành đã được học là chứng cứ chứng minh các nội dung “việc đổ xăng vào xe chạy dầu là rất nguy hiểm và làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới độ bền của động của động cơ xe ô tô, dòng chữ Diesel trên nắp bình nhiên liệu là cách nhận biết xe chạy máy xăng và xe chạy máy dầu” không có trong tài liệu này. Tài liệu này đương nhiên là đạt yêu cầu quy định tại Điều 16 Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19 tháng 06 năm 2009. Không căn cứ tài liệu này để bác bỏ lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” là áp dụng pháp luật máy móc, hình thức và xa rời thực tiễn.

1e) Hóa đơn bán hàng số 4663 ngày 06/03/2013 của Doanh nghiệp tư nhân xăng dầu Lê Thành và Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 là chứng cứ chứng minh thời điểm xảy ra sự việc đổ xăng cho xe Captival và thời điểm Bị đơn áp đặt lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” cho ông Thành là hai thời điểm khác nhau.Việc áp đặt lỗi này tại thời điểm đơn phương chất dứt hợp đồng lao động trái với sự thật là ông Thành đã thực hiện đúng yêu cầu của Công ty và vẫn tiếp tục làm việc tại Công ty sau khi xảy ra sự việc. Người bán xăng mở nắp bình nhiên liệu và đổ xăng là tình tiết công khai mà mọi người đều biết nên đây là tình tiết không phải chứng minh. Do đó, sự việc xe Captival được đổ xăng xảy ra vào ngày 06/03/2013 đương nhiên không phải là tranh chấp lao động xảy ra vào ngày 26/03/2013.

1f) Bản tự khai ngày 18/07/2013 của bà Hồ Thị Bảo Châu là chứng cứ chứng minh ngày 06/03/2013 Công ty yêu cầu ông Thành đưa xe Captival đi đổ xăng. Pháp luật lao động không quy định “người lao động thực hiện đúng yêu cầu của người sử dụng lao động là lỗi”. Việc ông Thành đã thực hiện đúng yêu cầu của Công ty không phải là lỗi đương nhiên bác bỏ lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu”.

Giả sử Bản tự khai này có giá trị pháp lý là Bản tự khai của Bị đơn thì Bản tự khai này cũng không phải là chứng cứ chứng minh ông Thành và Công ty có thỏa thuận về thử việc (nội dung “Ông Nguyễn Đức Thành được nhận vào làm thử việc cho công ty chúng tôi bắt đầu từ ngày 01/03/2013 đến 25/03/2013” bác bỏ “thời gian thử việc là 30 ngày trong bản án phúc thẩm”, lý do cho ông Thành nghỉ việc là do không đạt yêu cầu theo lý do nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013, không phải là do việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thỏa thuận thì Điều 32 của Bộ luật lao động đương nhiên không phải là căn cứ pháp luật để cho ông Thành nghỉ việc) và 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành. Ông Thành là nhân viên lái xe đương nhiên bác bỏ nội dung “nhân viên thử việc”. Nội dung “trên nắp bình có dòng chữ : Diesel” mâu thuẫn với sự thật là Công ty chỉ cho ông Thành biết tình tiết này sau khi xe Captival đã được đổ xăng. Nội dung “Chúng tôi không biết ông này do thiếu trách nhiệm hay có suy nghĩ như thế nào mà lại đổ xăng vào bình nhiên liệu khi trên nắp bình có ghi dòng chữ: Diesel” mâu thuẫn với sự thật là chính Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng cho xe Captival và xe Everest cũng chạy máy dầu cùng ngày nhưng chỉ có xe Captival được đổ xăng, mâu thuẫn nghiêm trọng hơn là Công ty không biết vì sao ông này lại đổ xăng vào xe chạy dầu nhưng lại tùy tiện áp đặt lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu”. Nội dung “Khi phòng kế toán tại đây thanh toán hóa đơn và phát hiện ông Thành đã đổ xăng cho xe Captiva” mâu thuẫn với sự thật là Phòng kế toán xưởng đã kiểm tra kỹ hóa đơn mua xăng và cũng không biết xe Captival chạy máy dầu khi ông Thành thanh toán hóa đơn mua xăng, chính bà Châu cũng không có ý kiến gì khi ông Thành bàn giao hóa đơn mua xăng, ông Thành cũng chỉ được bà Châu cho biết xe Captival chạy máy dầu sau khi đã về đến thành phố Hồ Chí Minh và đang trên đường chở bà Phương đi mua hàng cho Công ty. Nội dung “Nếu không kịp thời xử lý, chúng tôi e rằng hậu quả sẽ xảy ra cho cả xe và những người đi trên xe” là nghiêm trọng hóa sự việc và mâu thuẫn với sự thật là ông Tổng giám đốc chỉ cần đổ thêm dầu là đã xử lý xong mọi việc, việc xử lý tiếp theo là do ông Thành xử lý. Nội dung “Chính việc này đã làm cho ông Tổng giám đốc đã không hài lòng” mâu thuẫn với sự thật là sau khi làm rõ nguyên nhân đổ xăng cho xe Captival thì mối quan hệ lao động giữa ông Thành và ông Tổng giám đốc phát triển rất tốt đẹp. Nội dung “Ngày 25/03/2013 ông Thành báo cáo việc 2 lốp xe hư phải thay với giá mà ông Tổng giám đốc đã không chấp nhận (giá mà ông Thành báo với công ty quá cao)” không chứng minh được việc ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Catival là lỗi “Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua”. Nội dung “Ông Wache đích thân đến một cửa hàng khác mua” mâu thuẫn với sự thật là ông Thành và ông Túy mới là người trực tiếp đi mua (xem 1q ở dưới). Lý do 1p ở dưới chứng minh Bản tự khai này không có giá trị pháp lý là Bản tự khai của Bị đơn.

1g) Văn bản ngày 15/04/2013 có xác nhận của Công ty TNHH Ô tô GM Việt Nam về việc báo giá lốp xe của xe Captival ngày 26/03/2013 là 6.000.000 đồng. Văn bản này là chứng cứ chứng minh ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá của người bán đến người mua. Pháp luật không quy định “Việc truyền đạt đúng thông tin báo giá từ người bán đến người mua (nói đúng sự thật) là lỗi” thì lỗi “Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua” đương nhiên bị bác bỏ.

1h) Văn bản ghi ngày 25/04/2013 do bà Phương ký xác nhận ngày 18/07/2013 (có ghi âm, ghi hình) là chứng cứ chứng minh ông Thành đã đề nghị bà Châu và bà Phương chủ động tìm thêm thông tin về giá và nhà cung cấp lốp xe để trình cho ông Tổng giám đốc quyết định, bà Châu là người chủ động chọn mua lốp xe Captival của hãng Chevrolet trước khi ông Tổng giám đốc quyết định nhưng lại trốn tránh trách nhiệm và nói sai sự thật (Nội dung ghi âm, ghi hình tường thuật tại Văn bản ngày 15/08/2013 của ông Thành chứng minh bà Châu đe dọa không cho bà Phương nói ra sự thật). Văn bản này là chứng cứ bác bỏ nội dung (“Việc anh Thành trình bày về báo giá lốp xe là sai sự thật”) trình bày của bà Châu tại Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/04/2013.

1i) Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 là chứng cứ chứng minh ông Thành và Công ty không thỏa thuận về nội dung thử việc (Nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của Công ty là chứng cứ chứng minh ông Thành và Công ty không thỏa thuận về thời gian thử việc. Lý do cho ông Thành nghỉ việc nêu trong Quyết định này chứng minh ông Thành và Công ty không thỏa thuận về việc làm thử) và thời hạn của hợp đồng lao động (Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 27 của Bộ luật Lao động và khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP thì thời hạn của hợp đồng là không xác định). Quyết định này là chứng cứ chứng minh ông Thành là nhân viên lái xe. Lý do 3c ở dưới chứng minh nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” của Quyết định này là nội dung bị vô hiệu.

1k) Bản tự khai ngày 19/06/2013, bản Tranh luận sơ thẩm ngày 15/08/2013 và Đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày 04/09/2013 chứng minh ông Thành đã bác bỏ nội dung vô hiệu “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” của Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 thì nội dung thử việc không rõ ràng, không thỏa thuận phát sinh theo nội dung vô hiệu cũng đương nhiên bị bãi bỏ theo 3c ở dưới. Ông Thành đã phản đối và yêu cầu Tòa án không tự ý thêm cụm từ “thử việc” vào sau cụm từ “hợp đồng” tại Đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày 04/09/2013. Việc lợi dụng nội dung vô hiệu để cho rằng ông Thành thừa nhận “ông được Côngty Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế nhận làm thử việc với vị trí lái xe từ ngày 01/03/2013” là sai sự thật, trái pháp luật và cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án.

1l) Thông báo sửa đổi, bổ sung số 483/2014/TB-TA ngày 18/07/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là chứng cứ chứng minh ông Thành có quyền được sửa chữa những nội dung bị nhầm lẫn, có sai sót trong khâu đánh máy (copy văn bản) cho đúng với sự thật và quy định của pháp luật. Do đó, để đảm bảo khách quan, công bằng thì các nội dung mâu thuẫn, nhầm lẫn, sai sự thật, trái pháp luật đương nhiên phải được làm rõ, sửa đổi, bị bãi bỏ, bác bỏ, tuyên bố vô hiệu.

1m) Văn bản chứng minh và chứng cứ ngày 03/09/2014 là tài liệu bãi bỏ các nội dung bị sửa đổi của Văn bản chứng minh và chứng cứ ngày 06/05/2013. Do đó, Thông báo số 41/TB-CV3-V4 ngày 05/06/2017 của VKSNDCC tại TpHCM căn cứ mục 3 phần I bản chứng minh và chứng cứ ngày 06/05/2013 là không có giá trị pháp lý và xâm phạm quyền sửa đổi, bổ sung tài liệu, chứng cứ và tranh luận của ông Thành.

1o) Chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe ô tô hạng B2 ngày 22/06/2012 do Trung tâm dạy nghề lái xe Tiến Thắng cấp cho ông Thành là chứng cứ chứng minh việc áp dụng Thông tư số 46/2012/TT-BGTVG ngày 07/11/2012 là trái với quy định tại Khoản 1 Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 về áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Chứng chỉ này được cấp theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/06/2009. Chứng chỉ này không công nhận ông Thành là công nhân kỹ thuật hay nhân viên nghiệp vụ. Chứng chỉ sơ cấp thì nghề lái xe đương nhiên không phải là nghề có trình độ từ trung cấp. Vì vậy, ông Thành là nhân viên lái xe của Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế thì đương nhiên không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 2 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 10/05/2003.

1p) Hai văn bản ủy quyền cùng ngày 02/07/2013 là chứng cứ chứng minh bà Hồ Thị Bảo Châu không phải là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của Bị đơn tham gia phiên hòa giải sơ thẩm ngày 18/07/2013 thì đương nhiên Bản tự khai của cá nhân bà Châu và Biên bản hòa giải sơ thẩm cùng ngày 18/07/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 23/08/2013 của bà Châu là các văn bản không có giá trị pháp lý.

1q) Văn bản ghi ngày 25/04/2013 do ông Đoàn Văn Túy ký xác nhận tại Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ngày 18/07/2013 là chứng cứ chứng minh ông Thành vẫn là người được giao đi mua lốp xe mà không gây thiệt hại cho Công ty. Chứng cứ này đương nhiên bác bỏ ý kiến chủ quan, vô căn cứ và trái pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng rằng “nếu giao cho ông Thành mua lốp xe thì sẽ gây thiệt hại cho Công ty”.

1s) Văn bản (Thực hiện Thông báo số 07/TB-TAQBTh) ngày 12/04/2013 là chứng cứ chứng minh ông Thành trình bày “Theo Điều 26 Bộ luật Lao động thì Hợp đồng lao động giữa tôi và doanh nghiệp là sự thỏa thuận về việc làm quy định tôi là nhân viên lái xe từ ngày 01/03/2013 tại Điều I Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của Công ty TNHH Sài Gòn Đồ Gỗ Quốc Tế (SMI)” ngay từ khi nộp đơn khởi kiện (xem thêm 1k ở trên và 3c ở dưới) đương nhiên bác bỏ nội dung “chính ông Thành thừa nhận giao kết giữa đôi bên là làm thử việc lái xe” trong bản án.

1t) Có hai Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có nội dung tại trang 1 khác nhau là chứng cứ chứng minh bản án đã được sửa đổi sau khi tuyên án và ban hành bản án.

1u) Biên bản hòa giải ngày 18/07/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh là chứng cứ chứng minh người tiến hành tố tụng là Thẩm phán Trần Đăng Tân đã có hành vi cố ý làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án từ trước khi tiến hành hòa giải để giải quyết vụ án theo ý chí chủ quan và trái pháp luật: Thẩm phán không phổ biến cho các đương sự về các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các đương sự liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng vẫn yêu cầu các đương sự ký biên bản là có; không lấy lời khai của các đương sự; không yêu cầu nguyên đơn là ông Thành trình bày nội dung tranh chấp; không yêu cầu bà Hồ Thị Bảo Châu chứng minh lỗi của ông Thành; không công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; không thu thập tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của ông Thành nhưng lại lập biên bản có nội dung sai sự thật là “Các đương sự xác nhận không còn bất cứ tài liệu, chứng cứ nào để nộp cho Tòa án”; không cho ông Thành đối chất với bà Châu và không yêu cầu các đương sự trình bày bổ sung về các nội dung (mâu thuẫn) chưa rõ, chưa thống nhất đã được thể hiện trong hồ sơ vụ án.

1x) Các biên bản phiên tòa là chứng cứ chứng minh những người tiến hành tố tụng có hành vi cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án, tiến hành tố tụng theo ý chí chủ quan và trái pháp luật: Biên bản ghi không đầy đủ mọi diễn biến tại phiên tòa từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc; câu hỏi, câu trả lời và phát biểu ghi trong biên bản là bịa đặt theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng và hoàn toàn sai trái với câu hỏi, câu trả lời và phát biểu tại phiên tòa (Phiên tòa nói gà, biên bản viết vịt); không cho nguyên đơn là ông Thành xem biên bản ngay sau khi kết thúc phiên tòa, có ý kiến và ký xác nhận vào biên bản.

1y) Các tài liệu, chứng cứ khác tại địa chỉ các trang htg.vn/smi và thuonghieudoanhnghiep.vn/smi.

2. Yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp

Không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của Bị đơn là lỗi của ông Thành thì đương nhiên lý do cho ông Thành nghỉ việc theo Quyết định này là lý do vô căn cứ và trái pháp luật. Bị đơn sử dụng lý do vô căn cứ và trái pháp luật để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái điểm b khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 38 và Điều 87 của Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung năm 2007 thì đương nhiên là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật và phải thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 41 và khoản 1 Điều 42 của Bộ luật lao động này. Do đó, các yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của ông Thành là có cơ sở và phù hợp với các quy định của pháp luật. Cụ thể:

“1. Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế phải hủy Quyết định Số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 và có quyết định xin lỗi ông Thành do TGĐ trực tiếp ký theo quy định tại Điều 94 Bộ luật Lao động, Điều 9 Bộ luật dân sự.

2. Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế phải thực hiện trách nhiệm bồi thường cho ông Thành một khoản tiền tạm do hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 3 Điều 38, khoản 1 Điều 41, khoản 1 Điều 42, Điều 59, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Lao động, Điều 9, khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự và Điều 14, Điều 16 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Chi tiết:

a) Bồi thường một khoản tiền tương ứng với hai tháng tiền lương và phụ cấp  là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động.

b) Bồi thường một khoản tiền tương ứng với số tiền lương và phụ cấp của những ngày ông Thành không được làm việc là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động và điểm d khoản 3 Điều 14 Nghị định 44/2003/NĐ-CP.

c)  Bồi thường một khoản tiền tương ứng với số ngày không báo trước là đúng với quy định tại điểm a khoản 3 Điều 38 và khoản 4 Điều 41 Bộ luật lao động.

d) Bồi thường thêm một khoản tiền ít nhất bằng 2 tháng tiền lương là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động.

e)  Đền bù một khoản tiền ít nhất bằng tổng số tiền bồi thường nhân với lãi suất tiền gửi tiết kiệm của Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm trả tiền đền bù (Tiền lãi được tính từ ngày 26/03/2013 là ngày phát sinh tranh chấp) là đúng với Điều 59 BLLĐ, khoản 2 Điều 305 BLDS.

f) Tiền bồi thường tiền lương và phụ cấp của những ngày không được làm việc được tính từ ngày 26/03/2013 là ngày phát sinh tranh chấp đến ngày có bản án có hiệu lực pháp luật. Tiền lãi của tổng số tiền bồi thường được tính theo điểm e, yêu cầu 2 nếu hai bên không có thỏa thuận khác.

g)  Trả đủ tiền lương của những ngày nghỉ hàng năm kể từ ngày 01/03/2013 là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 41 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Lao động.

h) Trợ cấp thôi việc 2 tháng tiền lương với số tiền là 4.700.000 đồng là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 42, khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động và Điều 14 Nghị định 44/2003/NĐ-CP.

i) Đóng bảo hiểm cho Nguyên đơn theo đúng quy định của pháp luật về đóng bảo hiểm cho NLĐ.”

3. Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; Tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan

3a) Công ty không căn cứ Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/05/2003, Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT ngày 07/11/2012 và Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/07/2009 để ra Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013. Trong quá trình tố tụng, Công ty cũng không căn cứ các văn bản quy phạm pháp luật này để chứng minh “lỗi của ông Thành và thời gian thử việc của ông Thành là 30 ngày”. Thẩm phán Trần Đăng Tân cũng không phổ biến cho các đương sự về các văn bản quy phạm pháp luật này tại buổi hòa giải ngày 19/07/2013 là trái với quy định tại Điều 185 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Căn cứ Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT ngày 07/11/2012 để ra bản án là trái với quy định Khoản 1 Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.

3b) Các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ nhưng lại áp dụng trái Điều 32 của Bộ luật lao động năm 1994 và sửa đổi bổ sung năm 2007, trái Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/05/2003, trái Khoản 2 Điều 9 Thông tư số 46/2012/TT-BGTVG ngày 07/11/2012, trái Khoản 2 Điều 9 và Điều 16 Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/06/2009. Các lý do 1f, 1i, 1k, 1l, 1m, 1o, 1s, 3a ở trên và 3c ở dướichứng minh căn cứ Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/05/2003 để ra bản án là trái pháp luật.

3c) Trong thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm, ông Thành phát hiện ra Điều 32 của Bộ luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2007 không phải là căn cứ pháp luật để Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông Thành. Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố tụng đã không khách quan và không công bằng khi căn cứ vào Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/04/2013 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh để áp đặt ông Thành thừa nhận được Công ty nhận vào làm thử việc nhưng không căn cứ vào nội dung “Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (S.M.I) không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013” của chính Biên bản này để bác bỏ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty. Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh không còn căn cứ Điều 32 của Bộ luật lao động để ban hành Công văn số 311/LĐTBXH ngày 15/03/2017. Nghiêm trọng hơn, nội dung (tôi vào làm thử việc đã được sửa đổi là tôi vào làm việc) trình bày về một sự việc được trình bày trong nhiều văn bản thì nội dung (tôi vào làm việc) trong văn bản mới nhất đương nhiên bãi bỏ nội dung nhầm lẫn (tôi vào làm thử việc) trong các văn bản trước đó nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ lợi dụng nội dung vô hiệu (tôi vào làm thử việc) đã bị bãi bỏ để ra bản án và thông báo trái pháp luật. Rất nghiêm trọng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã xâm phạm đến quyền bãi bỏ và bác bỏ của ông Thành khi ông Thành đã bãi bỏ nội dung nhầm lẫn “tôi vào làm thử việc” của mình và bác bỏ nội dung trái pháp luật “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” của Công ty.

Giả sử có thời gian thử việc thì các lý do 1f, 1i, 1k, 1l, 1o, 3a ở trên chứng minh bác bỏ thời gian thử việc là 30 ngày của các cơ quan tiến hành tố tụng (Bị đơn không căn cứ Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 10/05/2003). Mặt khác, Điều 32 của Bộ luật lao động quy định rất rõ ràng là “Người sử dụng lao động và người lao động thoả thuận về việc làm thử, thời gian thử việc”, Công ty đơn phương áp đặt “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” tại thời điểm đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ngày 26/03/2013 là trái với quy định này. Không có tài liệu, chứng cứ nào có giá trị pháp lý được ban hành trước thời điểm ngày 26/03/2013 chứng minh ông Thành và Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế đã thỏa thuận về thời gian thử việc và không có biên bản đối chất giữa các bên để làm rõ sự thật về tình tiết này (từ thời điểm tiến hành hòa giải sơ thẩm ngày 19/06/2013 ông Thành đã yêu cầu đối chất nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng đến nay vẫn không thực hiện) thì nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” đương nhiên bị bác bỏ. Khi xét xử, Tòa án nhân dân hai cấp không tuyên bố vô hiệu nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” là trái quy định tại Khoản 4 Điều 166 của Bộ luật lao động.

Giả sử có việc làm thử thì việc đánh giá đạt hay không đạt yêu cầu thử việc cũng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật: Thứ nhất, các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào “các thông tư về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ và giá lốp xe Dunlop mà ông chủ đã mua” để cho rằng ông Thành không đạt yêu cầu thử việc là trái với căn cứ phải là “yêu cầu (việc làm thử) mà hai bên đã thỏa thuận” quy định tại Điều 32 của Bộ luật lao động. Thứ hai, nội dung “Công ty nhận tôi vào làm thử việc” phát sinh theo nội dung vô hiệu “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” thì đương nhiên bị vô hiệu, pháp luật lao động không quy định người lao động và người sử dụng lao động phải thực hiện việc làm thử khi hai bên giao kết hợp đồng lao động và thực tiễn dịch vụ cho thuê tài xế (người lái xe ô tô) của Công ty TNHH MTV Thương hiệu Vận tải Ba Thành do ông Thành làm giám đốc chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe, Lý do 1i ở trên chứng minh hai bên không thỏa thuận về việc làm thử, giá mua lốp xe Dunlop mà ông chủ đã mua và trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ diesel không phải là nội dung việc làm thử mà hai bên đã thỏa thuận, không có tài liệu chứng cứ nào có giá trị pháp lý chứng minh nội dung việc làm thử mà hai bên đã thỏa thuận là gì (?) và không có biên bản đối chất giữa các bên để làm rõ sự thật về tình tiết này nên không có nội dung việc làm thử mà hai bên đã thỏa thuận thì đương nhiên không có cơ sở để đánh giá việc làm thử đạt hay không đạt yêu cầu mà hai bên đã thỏa thuận. Thứ ba, Giấy phép lái xe số AV 543729 do Sở Giao thông Vận tải thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Thành ngày 04/07/2012 là chứng cứ chứng minh ông Thành đương nhiên đạt yêu cầu lái loại xe 7 chỗ của Công ty. Việc ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực chứng minh Công ty và Tòa án không có thẩm quyền quyết định ông Thành không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe. Như vậy, việc làm thử lái xe để đạt yêu cầu lái xe đương nhiên bị bác bỏ. Thứ tư, việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thỏa thuận không phải là lý do nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của Công ty, các lý do 1a, 1b, 1c, 1d, 1e, 1f, 1g, 1i, 1k, 1l, 1m, 1o, 1s ở trên cũng đã bác bỏ lý do này.

3d) Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 87 của Bộ luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2007 thì bị đơn là Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế có nghĩa vụ chứng minh lỗi của ông Thành. Tuy nhiên, không có tài liệu, chứng cứ nào của Bị đơn có giá trị pháp lý chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 là lỗi của ông Thành. Bị đơn không đưa ra tài liệu, chứng cứ và cũng không tham gia tố tụng để phản đối, bác bỏ các tài liệu, chứng cứ của ông Thành thì những tài liệu, chứng cứ này đương nhiên phải là căn cứ để xét xử và ra bản án. Các cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ ra được lời khai và nội dung trình bày của Bị đơn được thể hiện trong văn bản nào, do ai trình bày, ở đâu và thời điểm nào (?). Các cơ quan tiến hành tố tụng không phải là người đại diện và cũng không phải là người bảo vệ quyền lợi của Bị đơn nhưng lại bào chữa cho Bị đơn và đến nay ông Thành vẫn đang tranh chấp với các cơ quan tiến hành tố tụng về các căn cứ pháp luật, tài liệu, chứng cứ, tình tiết của vụ án để xét xử và ra bản án mà không phải là tranh chấp với Bị đơn.

3e) Sự thật là xe Captival vẫn hoạt động ổn định sau khi được đổ xăng (ông Thành chỉ được biết trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ diesel sau khi xe Captival được đổ xăng), độ bền của động cơ cũng không bị ảnh hưởng nghiêm trọng gì, Chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe ô tô hạng B2 (xem 1o ở trên), ông Thành vẫn là người được giao đi mua lốp xe mà không gây thiệt hại gì cho Công ty (xem 1q ở trên) và Lý do 3c ở trên chứng minh các luận điệu “nếu giao cho ông Thành mua lốp xe thì sẽ gây thiệt hại cho Công ty; …việc đổ xăng vào xe chạy dầu là rất nguy hiểm và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến độ bền của động cơ (mặc dù trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ diesel); …phải trải qua đào đạo về chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ nên thời gian thử việc là 30 ngày” là những luận điệu vô căn cứ, sai sự thật, trái pháp luật, mâu thuẫn, không rõ ràng, bảo thủ, thủ đoạn gian lận và nghiêm trọng hóa sự việc, ngụy biện nhằm làm nhiễu loạn thông tin gây hiểu nhầm, gian lận, dối trên, lừa dưới, qua mặt đồng nghiệp, bịp bợm người đọc cẩu thả, mị dân những người ngu lâu dốt bền hơn cả ông Thành. Các luận điệu này không phải là của Bị đơn trình bày thì đương nhiên không có giá trị pháp lý. Căn cứ các luận điệu này để ra bản án là không có cơ sở.

3f) Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh biết ông Thành vẫn còn tài liệu, chứng cứ chưa giao nộp được cho hai cơ quan này nhưng không tiến hành thu thập bổ sung mà không rõ lý do.

3g) Đến nay, ông Thành vẫn không được cung cấp đơn và tài liệu của Bị đơn đã nộp cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm để tranh luận. Hành vi vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng này đã xâm phạm đến quyền (Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do Bị đơn xuất trình hoặc do Tòa án thu thập) của ông Thành quy định tại khoản 8 Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

3h) Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 12/09/2014, Chủ tọa phiên tòa không cho ông Thành tranh luận và đối đáp với ý kiến của Kiểm sát viên, cũng không công bố lời khai của Bị đơn. Do đó, tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm không được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

3i) Sai phạm của Thẩm phán Trần Đăng Tân thể hiện theo Công văn số 4545/GBT-VPTU ngày 24/04/2017 của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh là “hành vi tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan” trong quá trình xét xử và ra Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013. Do đó, quyết định y án sơ thẩm đương nhiên là hành vi tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong quá trình xét xử và ra Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014, của Kiểm sát viên Võ Chí Thiện đối với việc ra Thông báo số 810/TB-VC3-V3 ngày 13/09/2016, của Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm đối với việc ra Thông báo số 41/TB-CV3-V4 ngày 05/06/2017.

4. Có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Vì các lẽ trên:

4a) Thông báo số 810/TB-VC3-V3 ngày 13/09/2016Thông báo số 41/TB-CV3-V4 ngày 05/06/2017 của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh là các thông báo có nội dung mâu thuẫn, sai sự thật và trái pháp luật thì phải bị thu hồi do ông Thành có khiếu nại.

4b) Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là bản án chỉ căn cứ vào những phân tích chủ quan, đánh giá tùy tiện, nhận định vô căn cứ và trái pháp luật của những người tiến hành tố tụng về các tình tiết của vụ án mà không tôn trọng sự thật khách quan và không căn cứ vào tài liệu, chứng cứ, kết quả tranh tụng (tranh luận thấu tình, đạt lý) của ông Thành tại phiên tòa; là bản án trình bày sai, thiếu, không chính xác nội dung đơn khởi kiện và không trình bày nội dung tranh luận của ông Thành; là bản án có phần trình bày của Bị đơn mâu thuẫn với sự thật là Bị đơn không tham gia tố tụng; là bản án bị sửa chữa sau khi đã tuyên án và ra bản án; là bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; là bản án có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; là bản án có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật (máy móc, hình thức, tùy tiện và xa rời thực tiễn), có kết luận và quyết định trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. Do đó, có căn cứ (theo quy định tại Điều 326, các khoản 1-3 Điều 352 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015) để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

YÊU CẦU CỦA NGƯỜI ĐỀ NGHỊ

Trân trọng đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm huỷ toàn bộ Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minhđể xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

Chân thành cám ơn và trân trọng kính chào!

M96

CÔNG TY TNHH MTV THƯƠNG HIỆU VẬN TẢI BA THÀNH
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.6899.6850 & 08.6899.6846 - Hotline: 0912 82 2628
Email: info@thuonghieudoanhnghiep.vn